Một cuộc hành trình vĩ đại của cả dân tộc kéo dài dằng dặc vượt qua con sông Thời Gian, với muôn vàn gian khổ đầy nỗi bi thương, thấm bao xương máu; nhưng hành trình ấy cũng đã khắc họa nên những huyền thoại và hào khí Đại Việt qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn...Và họ đã xác lập, mở ra tại đây một vùng văn hóa mới, làm giàu thêm hơn cái vốn có từ nền văn minh lúa nước sông Hồng. Buổi đầu ở đất mới, mỗi nhóm người Việt, hay tộc người bản địa đều mang trên mình một vóc dáng riêng, một diện mạo riêng, để tồn tại vượt qua thời gian khắc nghiệt, để giao thoa cộng cảm, chắt lọc linh khí rồi mã hóa đồng điệu làm nên cái chung trong mối tổng hòa được gọi là: Bản sắc dân tộc.
Trong cuộc hành trình đầy cam go này, Cội Nguồn chính là yếu tố nội sinh, là tiếng gọi xa xăm trong ký ức miên trường. Và, một lúc nào đấy người ta vô tình chạm nhẹ vào cõi tâm sâu thẳm, con người tha hương bỗng nhiên ngoái lại, trước hết bằng ý niệm, quay về. Rồi cũng đến một lúc nào đấy, an nhàn hơn, sung túc hơn, khi đứng trước hương linh liệt tổ, người ta chợt nguyện ngộ rằng, mình cũng từ trong cái bọc êm ấm của Mẹ Âu Cơ thoát ra, đã mang theo khát vọng linh diệu ngàn đời cùng dòng máu nóng rồng tiên từ Lạc Long Quân truyền lại đến bây giờ. Và ý thức quay về Cội Nguồn trỗi dậy, lớn dần lên theo năm tháng đời người.
Nhiều năm trước, khi đất nước còn bị chia cắt bởi chiến tranh vệ quốc, những người dân miền Nam sống trên đất Bắc, trong đó có chúng tôi, mặc dù được chế độ ưu đãi mọi thứ, được chia sẻ mọi điều của người dân miền Bắc, nhưng nỗi nhớ quê hương vẫn luôn đau đáu thường trực ở tận đáy lòng. Ấy vậy mà, sau ngày đất nước thống nhất, khi đã trở lại quê về lại Huế, chúng tôi thường hay nghĩ đến đất Tổ Phong Châu. Như một định mệnh nghiệt ngã, khuấy động chiều sâu tâm thức và cảm xúc trào dâng lớn dần lên trong tôi mỗi lần bắt gặp những câu thơ máu thịt được chiết ra từ bài thơ Nhớ Bắc của Huỳnh Văn Nghệ: “Ai về Bắc, ta đi với Thăm lại non sông giống Lạc Hồng Từ độ mang gươm đi mở cõi Trời thương nhớ đất Thăng Long”... Có lẽ tổ tiên chúng ta xưa không chỉ mang gươm đi mở cõi, mà họ còn phải cõng theo cuốc cày, hạt giống, cả cách chăn nuôi trồng trọt, đồng thời gánh luôn y thuật, lễ hội và cả “Tên đất tên làng trong mỗi chuyến đi xa” để vượt qua lam sơn chướng khí mà sinh tồn, mà phát triển.
Xứ Thuận Hóa, giữa buổi đầu người Việt chỉ có vài ba chục hộ với vài trăm dân, trải qua các triều đại thịnh suy từng quản nhiệm nơi đây, nay chỉ tính riêng hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế cũng đã lên tới hai ngàn làng! Giữa buổi đầu đất đai mênh mông, hoa thơm cỏ lạ, nhưng Thuận Hóa vẫn là nơi ác địa “Con chim kêu cũng sợ, con cá quẫy cũng kinh”, người đi đến thì dễ, người trở về thì khó! Ấy vậy mà ngoái lại đã thấy, nơi đây giờ thành một xứ sở phát triển, có những trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, du lịch, y tế của miền Trung, có nhiều lĩnh vực chiếm vị trí cả nước. Chẳng hạn như Hội An, Đà Nẵng, Lăng Cô, Cửa Tùng, Nhật Lệ. Hay cận hơn là một ngôi làng Phú Xuân, Huế. Vốn dĩ Phú Xuân chỉ là cuộc đất của làng cổ Thụy Lôi, sau được chọn làm thủ phủ của chúa Nguyễn; rồi Nguyễn Huệ đóng đô nhà Tây Sơn; Nguyễn Ánh lên ngôi vua Gia Long xây cột cờ, dựng cung điện đắp đàn Nam Giao, lập Thế Miếu - Phú Xuân trở thành Kinh đô sầm uất của nước Việt Nam thống nhất.
Nhớ cái ngày xa lắc ấy, khi người Việt vào đây nói tiếng nói còn pha “tiềng miền Hoan - Ai” và lẫn cả giọng người bản địa, khiến cho Tiến sĩ Dương Văn An nhà Mạc phải thốt lên, “Tiếng Huế quần Chiêm thói càng bị ổi”. Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu thành lập Trấn Biên - Gia Định, Thiền sư Thích Đại Sán từ Trung Hoa sang Thuận Hóa truyền đạo, ông đã chép lại trong Hải ngoại kỷ sự: “Người xứ ấy tiếng nói nghe như tiếng chim”. Vậy mà vụt một cái thay đổi nhanh như thổi, đến nay “Tiếng Huế nghe răng mà ngọt rứa. Giọng hò man mác nước sông Hương”. Xứ Thuận Hóa được diễn rộng ra từ nam đèo Ngang đến bắc sông Thu Bồn, một dãi đất mênh mông quá ư là rộng - Nay hẹp lại, nói gọn hơn về một xứ Huế đẹp và thơ.
Theo một số nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử, chữ Huế âm Huế trong tiếng Chàm có nghĩa là thơm, hương thơm, được gắn với con sông thơm chảy qua giữa lòng thành phố. Cuộc địa Huế xưa vốn chỉ mà mãnh đất biên viễn, từng là tiền phương của Đàng Ngoài khi chúa Trịnh vượt qua sông Gianh, rồi lại là hậu phương của Đàng Trong khi chúa Nguyễn tiến xuống sông Tiền sông Hậu. Dưới thời Pháp thuộc, theo thiết chế đô thị Tây phương Huế trở thành thị xã; rồi lên thành phố đô thị loại 3, sau là đô thị loại 2; mới đây vào ngày 03 tháng 8 năm 2004, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế ra Nghị quyết nâng cấp đô thị, giao cho Ủy ban Nhân dân tỉnh hoàn chỉnh hồ sơ trình Chính phủ, đưa Huế vượt lên tầm vóc của thành phố loại 01 trực thuộc tỉnh. Điều này hoàn toàn có lý khi Huế đã ở vào vị trí tương đồng, và có những mặt vượt xa qua các thành phố loại 01 khác. Mặc dù chưa có văn bản chính thức, nhưng từ lâu ngườt Việt
vẫn xem Huế là một trong sáu thành phố lớn của đất nước. Do vậy mà ông Chủ tịch thành phố Huế, mới đây nghiễm nhiên được bầu vào ghế Chủ tịch Hiệp hội các đô thị lớn của Việt
.
Như những người dân yêu Huế khác, tôi thường lang thang ngang dọc thành phố. Có một chiều đầu xuân trôi thuyền trên sông Hương, qua trước mặt kinh thành, tôi bất chợt nhận ra tính cố hữu lâu nay ngự trị trong tư duy sâu thẳm của mình, tôi e rằng khó chấp thuận nhưng không thể xếp Huế là thành phố loại nào như kiểu các thành phố khác của Việt Nam. Mà Huế phải được nhìn nhận theo một hướng khác, là thành phố lớn đặc biệt theo kiểu đặc biệt. Bởi quá khứ, lịch sử đã tạo ra cho Huế những giá trị văn hóa vĩnh hằng: Huế vừa cổ kính rêu phong vừa sáng rạng hiện đại, vừa mang tư tưởng phương Đông vừa chuyển tải triết lý phương Tây. Huế có nhiều trường đại học cao đẳng, công lập, dân lập, với cả trường Phật học hệ cao cấp; lại có nhiều trung tâm khoa học, y học mang tầm quốc gia, với cả hàng trăm ngôi chùa tiêu biểu của Phật giáo, với hàng chục nhà thờ nổi tiếng của người theo đạo Ki tô. Nửa thành phố phía nam sông Hương là thành phố trẻ, thời Pháp chiếm gọi là khu phố mới, hay khu phố Tây. Phía bắc sông Hương là thành phố cổ, với thành quách rêu phong, đền đài, cung điện, đình đàn, Quốc Tử giám, Quốc Sử quán, Cơ Mật viện, Bảo tàng Cổ vật, lầu Tàng Thư, hồ Tịnh Tâm của kinh đô xưa. Khu vực Đại nội - Tử Cấm thành là nơi ở của nhà vua, người nước ngoài đến Huế chỉ vào đấy mà gọi là “thành phố trong thành phố”. Vùng phụ cận, nhà vườn san sát, cây trái sum suê, nhiều đêm vẫn nghe rõ tiếng gà cầm canh xen lẫn tiếng chuông chùa gọi sáng. Huế là thành phố có nhiều sông ngòi, chùa chiền, am điện, với nhiều loại hình lễ hội dân gian. Huế có cảng cổ Thanh Hà, phố cổ Bao Vinh thời các chúa, lại có khu phố cổ Gia Hội, Chi Lăng thời các vua. Phố ấy xưa là phố buôn với những dãy phố chạy dài theo sông Hương thường gọi là các hàng (chữ hàng đồng nghĩa với loại hàng hóa buôn bán tại đây). Là thành phố nhưng bản chất Huế gần thôn quê, có nhiều phủ đệ, nhà thờ xen giữa những ngôi làng. Huế chất chứa trong mình sức sống mãnh liệt từ cội nguồn của nhiều thành tố văn hóa, để làm nên một diện mạo đặc sắc của một tiểu vùng được gọi bằng cái tên: Văn hóa Huế!
Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế vốn được thiên nhiên biệt đãi về cảnh quan, phong thủy; đồi núi nối nhau như rồng cuộn hổ ngồi chầu về tận đồng bằng. Sông Hương, con sông biên viễn, con sông tình yêu, con sông định mệnh, con sông thi ca uốn mình qua ghềnh thác mà vẫn tải nặng phù sa văn hóa tâm linh dòng sông chảy vào lòng thành phố. Chính nhờ chiều sâu ấy mà khuôn mặt vốn đã diệu kỳ của kiến trúc kinh thành Huế lại càng kỳ diệu hơn. Và tôi nghĩ rằng, chỉ bằng ấy thôi Huế cũng đủ “tiêu chí” là một thành phố đặc biệt rồi. Sở dĩ nó đặc biệt vì nó hiện hữu nhiều đặc trưng, tuy không đồ sộ, ồn ào theo kiểu của anh chàng khổng lồ, to khoẻ mà ngây ngô, nhưng cái gì cũng có, cũng chất chứa sâu thẳm của văn hóa và lịch sử. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, không chỗ nào trên đất Huế mà không có dấu ấn văn hóa học, thậm chí nhiều tầng văn hóa trên một không gian, trên một bình diện hẹp. Huế vừa cũ lại vừa mới, vừa cổ lại vừa tân, vừa truyền thống vừa hiện đại luôn được nối tiếp nhau mãi.
Huế mang trên mình Cố đô Đại Việt, đồng thời cũng cõng luôn vị trí kinh đô Phật giáo Việt Nam thứ hai sau Yên Tử. Huế gánh trên đôi vai gầy sứ mệnh một khối lượng di sản văn hóa dân tộc, trước khi nhân loại xếp thêm cho Huế là Di sản văn hóa thế giới. Huế đã, đang và sẽ là thành phố đặc trưng của lễ hội - thành phố Festival văn hóa của Việt
. Mà như thế, hiển nhiên Huế phải được hưởng một qui chế đặc biệt, của một thành phố đặc biệt, như kiểu Kyôtô Nhật Bản, Chiềng Mai của Thái Lan. Nói cách khác, muốn khai thác, phát triển Huế trong hướng bảo tồn thì rất cần có một chính sách quy hoạch đặc biệt, xuất phát từ cách nhìn đặc biệt.
Đầu thế kỷ 20, khi khảo luận văn chương lạm bàn về Huế, nhà văn Phan Kế Bính cho rằng, núi sông, ghềnh thác, biển cả, mây bay, gió thoảng, cầu vồng mọc, sao băng, sấm chớp, sóng nước nhấp nhô, thậm chí là cả giông tố, bão lũ... đều là văn chương của Trời Đất; còn như đền đài, cung điện, triều miếu, lầu son gác tía xưa nay, hay như nhà ga, bến cảng, khách sạn, trường học, bệnh viện cho đến sân khấu, hý trường cũng đều là văn chương chữ nghĩa, đạo lý của con người; chứ không riêng gì tác phẩm văn chương thi phú, văn hóa nghệ thuật được thể hiện ở trình độ văn minh của từng đoản kỳ được sáng tạo, biên khảo của từng thế hệ văn nhân, tài tử mới là văn chương nghệ thuật. Mà nói đến văn chương, thì ai cũng biết rằng văn là vẻ đẹp của tâm hồn, là chiều sâu của tuệ nhãn; chương là ánh sáng lung linh phát ra từ cảm xúc trái tim con người làm tăng thêm mỹ diệu cuộc sống. Từ đấy, người xưa cho rằng: có văn vật, văn chương nghệ thuật, mới có văn hiến thiên niên quốc.
Với Huế, dường như sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Thiên Nhiên - Trời Đất - Con Người là đồng tác giả của tác phẩm tổng thể kiến trúc thành phố, trong đó vượt lên là kiến trúc kinh thành Huế, nó vừa kỳ vỹ vừa tuyệt mỹ lại vừa đặc biệt để làm nên “Bài thơ đô thị Huế” hôm nay. Dân gian thường nói: “Hữu xạ tự nhiên hương”, cố nhiên là con người chủ thể phải quyết định lấy, để Huế có vị thế vững bền trong ý niệm cũng như hiện hữu. Tục ngữ phương Tây cũng có câu: “Thà có một hơn là hai sẽ có”. Huế đã có cả hai: Quần thể di tích Cố đô là Di sản văn hóa nhân loại. Nhã nhạc cung đình Việt
mà đặc trưng nhất, tiêu biểu nhất là Nhã nhạc cung đình Huế đã trở thành kiệt tác văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của Thế giới. Và tuyệt diệu hơn, khi sông Hương con sông vô giá của Việt
cũng trở thành tác phẩm nghệ thuật tạo hóa có giá trị vượt trội toàn cầu.Vậy là, Huế lại có cả ba!
Chiến tranh đã lùi xa và Huế cũng đã trãi qua thời kỳ “thành phố quan lại, thành phố hoang tàn”. Huế đang chuyển mình hội nhập rướn sức vươn lên để trở thành một đô thị văn hóa đặc trưng, một thành phố đặc biệt và thật sự hiện đại của Việt
. Từ đấy, những gì mảnh đất này đem lại giá trị cho văn hóa Việt Nam, giúp tôi thường mông muội nghĩ rằng, e đó mới là phong hóa, là nhân văn, là chiều sâu của con người Thuận Hóa - Phú Xuân, của người dân Huế từ muôn đời nay. Huế, cuối xuân 2005 D.P.T (196/06-05) |