Hoàng thân Ưng Bình Thúc Giạ Thị có câu thơ nổi tiếng, đã thành lời ca ru Huế vào mơ:
Chiều chiều trên bến Phu Văn Lâu... Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông... Thuyền ai thấp thoáng bên sông... Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non...
Đó là nỗi niềm man mác hay lòng người ra đi và lòng người ở lại. Có người cho rằng đó là chiêu niệm một Công chúa Huyền Trân rời bỏ Thăng Long để nước non có thêm Châu Ô Châu Lý (tức Thuận Hoá đọc chệch ra Huế ngày nay). Lại có người cho rằng đó là nhớ về mấy ông vua trẻ tuổi, càng mất nước càng yêu nước đến đành kiếp đi đầy biệt xứ, và vị hoàng thân này than thở với kinh đô sông Hương núi Ngự...
Huế là thành phố một trong 5 di sản Việt Nam được Liên Hiệp Quốc công nhận là di sản lịch sử và văn hoá nhân loại. Không phải bây giờ ta mới yêu Huế vì danh vang đó. Huế là lòng người Việt tự xa xưa, có con sông hiền như nàng gái, có ngọn núi êm đềm như núm vú trời, có tiếng thông reo như muôn cây vĩ cầm hoà tấu, có màu tím, tím đến lạ lùng, tím đến thành thơ, tím đến thành tên riêng: Màu tím Huế. Nếu kèm theo chiếc nón trắng thì người con gái Huế nào cũng trở thành nàng thơ của bất kỳ người con trai nào lạc nẻo về đây...
Những gì của Huế là đáng yêu nữa? Không thể thống kê, giống như ta hỏi người ta yêu, và người yêu ta hỏi ta rằng: "Anh yêu em vì lẽ gì? "Em yêu anh vì cái gì?"
Những đền đài lăng tẩm vương vương hương hoa dại thoát mùi tục lụy. Những cột trụ chỉ báo, vượt lên mái nhà, vượt lên tầng cây để báo hiệu: Khu vực này có lăng tẩm nhà vua. Những món ăn ngon không phải là sơn hào hải vị tay gấu, thai báo, mà chỉ là con tôm, chút bột, con hến, hạt đỗ, mớ rau, trái ớt. Chẳng hạn bánh bột lọc nhân tôm trong suốt, bánh bèo Vĩ Dạ, bánh khoái Thượng Tứ, miếng mắm tôm chua nơi nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch họp nhau lại thành sông Hương, có tên là ngã ba Bằng Lãng (ngã ba nơi sóng bình yên).
Không thể kể hết khi ta bềnh bồng con thuyền ngược dòng Hương trong đêm trăng chênh chếch thượng huyền, nghe người ca nữ lướt gió mưa trên phím đàn tranh từ Nam ai sang Nam bằng, từ Lưu thuỷ sang Hành vân, từ Lý Năm canh sang Mười yêu, mà mặt hoa người hát với dòng sông mơ ngủ đều thành ảo ảnh suốt một đời còn lại trong ta...
Kỳ lạ thế, hoa phượng Hà Nội, Hải Phòng là mùa học trò lưu luyến, hoa phượng xứ Huế hình như đua nở quanh năm, phải chăng để thêu hoa dệt nắng lên những mái cong lâu đài đình tạ, từ cổng Ngọ Môn uy nghi đến lăng vua Minh Mạng hoành tráng một đường hoàng đạo, từ lăng vua Khải Định mang nhiều nét hiện đại đến lăng Tự Đức thâm nghiêm u tịch, từ Điện Thái Hoà đến Hiển Lâm Các, từ điện Hòn Chén đến chùa Thiên Mụ...
Phường thợ đúc đồng miền Thừa Thiên Huế nay còn bao nhiêu mà vẫn để lại kia Cửu đỉnh (chín chiếc đỉnh) và đôi vạc đồng giữa sân cỏ ngả nghiêng, cho mây trời soi bóng, cho chút bèo tấm ngủ nhờ lòng vạc... Chính vua Minh Mạng là người sai khắc vào đỉnh mọi hình khe thế núi, mọi sản vật linh thiêng, mọi con sóng áng mây, lớn như đỉnh núi Hoàng Liên, nhỏ như một nhánh tỏi lá rau, để nghìn sau ai chiêm ngưỡng 9 pho đỉnh này sẽ tăng thêm lòng yêu nước và sẽ biết phải sống thế nào để xứng đáng với Đất Nước mang trên mình những thiêng liêng quí báu đó.
Triều Nguyễn không êm đềm như triều Lý (có giặc nhưng ít), không rực rỡ dài lâu như triều Lê, không oanh liệt như triều Trần (ba lần đánh tan quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới) nhưng triều Nguyễn còn để lại nhiều công trình văn hoá vật thể, và phi vật thể, mà rõ nhất là khu di tích đế đô đang được bảo tồn và trùng tu, đang được thế gian chiêm ngưỡng. Những bóng rồng và hình rồng hiện diện khắp mọi nơi lộng lẫy nét vàng son cho ta mỗi lần đến Huế là một lần đắm mình vào lịch sử và văn hoá đất nước, cho ta hình dung ra chỗ hồ nước kia có ông vua già ngồi câu cá, chỗ mái hiên kia có nàng cung phi đang chải tóc, chỗ thư phòng kia có ông vua trẻ đọc sách nhưng lòng mình đặt vào nơi khác trong câu nói:
"Tay nhơ lấy nước làm sạch. Nhưng nước nhơ thì lấy gì làm sạch? Phải lấy gươm mà làm sạch..." để rồi thành kẻ đi đầy, hàng trăm năm sau mới gửi về cố quốc nắm xương tàn đau đớn...
Có một vế đối rất bình thường nhưng lại rất hay và vô cùng khó đối, nói về khu Thành Nội Huế:
Không vô trong Nội nhớ hoài.
Tách từng cặp hai chữ một, Không cũng nghĩa là Vô, Trong cũng nghĩa là Nội, Nhớ cũng nghĩa là Hoài... mà đọc liền câu thì có nghĩa là nếu không vào thăm khu thành Nội thì luôn nhớ, thì nhớ mãi... Hình như thú chơi chữ này chưa ai đối được. Huế là thế, là tinh xảo, là lịch lãm, là thanh tao và cũng là trí tuệ. Món Huế trên một mâm cơm (chưa nói đến tiệc) không bao giờ chỉ một vài, mà thường có hàng chục món, nước chấm cũng không kém số lượng đó. Nhiều nhưng thanh cảnh, mỗi món chỉ một hai miếng chứ không cần nhiều, hình như nó giống phần nào với lác đác bông hoa sen trắng trên mặt hồ Tịnh Tâm bạt ngàn màu lá sen xanh thơm ngát...
Có người nhận xét: Tiếng Hà Nội là chuẩn xác về thanh âm và ngữ nghĩa, là rành rọt về nhịp điệu, là thanh thoát về âm giai... còn Huế, là gió thoảng, là thông reo trên núi Ngự, là nhịp chèo trên sông Hương, có chút gì pha với giọng nói của hồ nữ trong Liêu Trai của Bồ Tùng Linh. Hãy nghe một từ "Dạ" của một ai đó trong khu vườn xanh đầy chim hót, trên một bến đò, trong một ngõ hẻm... mới thấy giật mình không hiểu mình vừa nghe thấy tiếng gì, là âm thanh thực hay âm thanh ảo mà nó cứ bay lên nhưng ở lại, thoảng qua nhưng thật mịn màng quay vòng tròn quanh người nghe... Phải chăng vì thế mà những điệu hò lý sông Hương mới hớp hồn tài tử thi nhân nhường ấy!
Thì cũng như mọi đô thị, mọi thành phố khác trong thời hiện đại, Huế cũng có khu buôn bán tấp nập, có chợ có phố, có quán ăn hiệu uống, có cửa hàng siêu thị, có bến xe như khu vực hai bờ sông Hương, chỗ chợ Đông Ba... nhưng đến Huế không phải là để đi chợ mua hàng như vào siêu thị Sài Gòn, mà là đi tìm cái khác. Cái khác đó chính là di sản, là văn hoá còn ẩn mình khắp nơi từ một con phố trầm lắng đến những ngọn thông vi vút trên đồi, chẳng hạn nơi đàn Nam Giao, trên núi Ngự Bình...
Sài Gòn là tốc độ. Hà Nội là hiện đại và mở mang. Huế khác. Huế có những khu vực hình như tự mình tách ra ngoài thời gian vật lý, sống với hồn mình, sống với tâm tư và hoài niệm. Khu thành nội, có những khu vườn như thế. Ai cần uống giải khát hay la đà chén chú chén anh, phừng phừng cảm giác... xin đừng đến nơi này. Đến đây là để được khoác lên mình tấm áo và chiếc mũ làm bằng bóng cây toả rộng trùm khắp xung quanh, trùm lên toàn bộ thân ta mà nghe cái gió, cái nắng đang đi qua...
Bộ bàn ghế là mấy chiếc gộc cây đã cũ hoặc mấy hòn đá rêu phong, ngay cạnh nó là những sợi rễ ngoằn ngoèo như con trăn bò đến đây tự nhiên hoá thạch... vì nó cũng lâng lâng.
Gọi tách cà phê, một tà áo dài thấp thoáng sau khung cửa, một tiếng "dạ" mơ hồ như có như không... trong khi tiếng chim âm vang cành này hay cây kia không biết, vì chỉ nghe tiếng mà chẳng thấy hình... Một điệu nhạc cổ điển bỗng vang lên. Nữ chủ nhân mở nhạc phục vụ khách hay tự khu vườn vang lên tiếng nhạc bằng nhựa cây, bằng lá reo, bằng hơi thở... Không có nhạc xập xình, cũng không quá réo rắt hay kích động... chỉ vừa đủ nghe, hoà vào tiếng tí tách giọt cà phê trong lòng tách. Cà phê vườn Huế do một "Mệ" hay một tiểu thư từng là khuê các trong nhà quan, nay thế thời thay đổi, mở hàng cho vui, cho có tiếng đời, cho cây cũng ấm hơi người, cho mắt lá cây hoà mắt người thành tri kỷ phút giây...
Từ khi Huế là một trong 5 di sản Việt Nam được cơ quan UNESCO Liên Hiệp Quốc công nhận đã có bao nhiêu khách quốc tế đến với Huế và bao nhiêu người Huế mang Huế đến khắp chân trời? Huế là một thực thể sống động, chỉ khác ở chỗ Huế vẫn là mình, có phong cách riêng, có linh hồn riêng... để Huế đang sống và còn sống trong lòng những người từng đến với Huế, dù chỉ một lần.
Không thể không nhắc đến một con ngòi nhỏ, một nhánh của sông Hương, nơi từng có con thuyền bồng nhỏ cắm sào hàng chục năm, có Ông già bến Ngự bị giam lỏng. Nơi ấy gần nhà thờ Phủ Cam, gọi là "Bến Ngự" và ông già ấy chính là cụ Phan Bội Châu, một người bất tử cùng với Huế bất tử. Vâng, xin thưa: Huế sẽ là bất tử.
10-2003 B.S (179-180/01&02-04) |