Từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 8 năm 1973, anh bị kẻ thù bắt và giam ở nhà tù Côn Đảo. Những tháng ngày bị đày ải, anh vẫn luôn giữ vững ý chí và niềm tin vào tương lai Cách mạng. Tập thơ Một thuở xuống đường (NXB Thuận Hoá, 2001) đã ghi lại chặng đường lịch sử ấy. Mặc dù làm thơ chủ yếu là để cổ động, tuyên truyền nhưng nhiệt tình cách mạng đã giúp anh viết được những vần thơ đầy hào khí và dồi dào cảm xúc, như những bài: Thừa Phủ ơi, lòng ta hồng biển lửa, Bài thơ viết trên lá bàng, Hai người bạn... Sau 1975 đến nay, anh từng là cán bộ Ban Tuyên huấn Thành uỷ Huế; Chánh văn phòng Hội, Phó rồi Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế; Đại biểu Hội đồng Nhân dân thành phố Huế; Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam... Võ Quê là một trong những người có công đầu trong việc phục hồi và phát triển nghề ca Huế trên sông Hương. Tập sưu tầm lời ca Huế Tiếng nói Hương Bình của anh đã nhận giải thưởng Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Anh cũng đã nhận được một số giải thưởng có giá trị khác như giải của UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, giải thưởng Cố đô... Trong hàng chục tập thơ đã xuất bản của anh thì những bài anh viết về làng Chuồn ghi được dấu ấn hơn cả. Làng Chuồn (An Truyền), xã Phú An, huyện Phú Vang nổi tiếng rượu ngon là quê hương của anh: Ơi làng Chuồn ơi cánh võng yêu thương/ Đang chao vỗ trên hồn tôi nhịp sóng/ Mặt đầm xanh cánh chuồn bay sức sống/ Ngọn gió nồm xao xuyến những bờ tre (Với làng Chuồn). Những năm gần đây, ở Huế lưu truyền một số bài “thơ lái” của Võ Quê. Đây là cách chơi thơ hết sức độc đáo đã có từ thời cụ Nguyễn Khoa Vy, Ưng Bình Thúc Dạ. Nhà thơ Võ Quê có cách lái cũng khá hóm hỉnh không kém các bậc tiền nhân. Một trong những bài “thơ lái” được nhiều người nhắc nhở là bài anh viết nhân trận lụt lớn năm 1999, ở Huế: Trời lụt ca nhi cũng trụt lời/ Trời đong mưa lũ xuống trong đời/ Vái lạy lụt tan lành váy lại/ Đời cho du khách dạo đò chơi. MAI VĂN HOAN giới thiệu
Thừa Phủ ơi lòng ta hồng biển lửa
khi mùa đông rớt xuống vai người chiếc lá vàng khô chết hồn vui lòng em có đau ơi người tù thiếu nữ manh áo nâu bùn em nép mình đằng sau cánh cửa những cánh cửa chua ngoa giam hãm bóng chim hiền
giọt nước mắt em rưng rức từng đêm ta biết em đang vo thành lửa bỏng ngày em đến đây ngờ nghệch vô cùng tội tình gì một sáng ven sông lũ chúng bạo hành em lưỡi lê ghìm đầu súng mẹ rên xiết gào lên uất hận con tôi! tội nghiệp con tôi Hai ơi con đã đi rồi vườn hoang cỏ cháy mẹ ngồi khóc con
từ đó không còn bay áo mỏng trên quê hương hào khí ngất Trường Sơn trong khám lạnh lòng càng cao căm phẫn em lớn khôn theo chí căm hờn
em đang mơ ngày bứt xiềng bạo lực đời hồn nhiên hoa bướm thong dong sau cánh cửa nhà giam nụ cười thơm giấy mực tiếng hát em về réo rắt giòng sông
ơi người tù thiếu nữ trưa nay đang quét lá khô rơi trên vỉa hè Lê Lợi hồn em đau trong từng nhát chổi lạnh lùng ta biết lòng em đang rực hồng biển lửa chờ gió ngày bão lớn thổi bùng lên Chí Hòa Tân Hiệp Côn Sơn cuồng phong Thừa Phủ cuốn tan ngục tù mắt em sáng nắng mùa thu tình long lanh ý ngoc em đang mơ ngày bạo quyền ngã gục xác chúng phơi trên ngưỡng cửa đề lao kiêu hùng tóc biếc bay cao em tung nón rách em gào tự do!
ngày mai trên những chuyến đò có cô con gái học trò sang sông áo bay thơm má em hồng cờ vươn cao ngọn gió Thừa Phủ ơi! Thừa Phủ ơi! Lòng ta hồng biển lửa!
Viết trên đồi Vọng Cảnh
Ly rượu ai vùi trong cỏ? Tình cờ tôi nhặt ly lên Lá úa mục đọng mùn men sứ Cầm ly tôi bỗng dưng thèm Thèm gặp bạn trong chiều Vọng Cảnh Nâng ly hào sảng đón hoàng hôn Sông Hương xanh, mặt trời rực đỏ Chợt hòa tím sắc quê hương Ly rượu ai vùi trong cỏ? Phải người xưa gửi dặn người nay: Lãng mạn uống tận cùng trời đất Thiên nhiên chỉ một chốn này! Huế chốn này thiên nhiên ban tặng Người bốn phưong thơ túi rượu bầu Đêm trăng sao điệu đàn câu hát Ngày tuổi thơ diều no gió bay cao Ly rượu ai vùi trong cỏ Biết ơn đấng khuất mặt khuất mày Bảy trăm năm Huyền Trân công chúa Khổ đau đời cho hạnh phúc hôm nay Ly rượu ai vùi trong cỏ Xanh trong em làn hương dòng sông Đỏ trong tôi ánh trời Vọng Cảnh Tím trong nhau hồn nước thủy chung! Vọng Cảnh, 5.4.2005
Với làng Chuồn Chắc cánh chuồn bay giỡn sóng đầm xanh Nên tên làng khai sinh từ ấy Tên làng Chuồn nâng đời tôi lớn dậy Từng tháng ngày trong sáng thuở hoa niên
Tiếng gõ chài thôi thúc gọi triều lên Hồi trống đình giục vầng trăng về xóm Chuông chùa ngân đồng làng thơm hương cốm Những câu thài thay tiếng mẹ ru nôi
Hai cuộc chiến đi qua làng mất mát chia phôi Tôi xa làng nổi trôi bèo dạt Đọng giữa lòng bâng khuâng câu hát Giáp Đông là giáp Đông còi...(*)
Nghĩ về làng thương quá làng ơi Còn đâu những anh Xức mệ Mè mệ Bướm... Đời cùng khổ kiếp người vay mượn Tiếng nợ đòi rứt thịt tuổi thơ tôi
Nay làng đã giàu thêm tên đất tên người Giáp Giữa giáp Đông đã có thêm Đồng Miệu Lúa mọc quanh nhà nghe đằm men rượu Con gái con trai làng bơi giữa mùa trăng
Mẹ làng Chuồn dẫu một đời gian truân Hai đầu gánh cá đầy oằn vai mẹ Hạnh phúc mẹ mẹ dành cho lớp trẻ Áo nối dài thành một nắng hai sương
Ơi làng Chuồn ơi cánh võng yêu thương Đang chao vỗ trên hồn tôi nhịp sóng Mặt đầm xanh cánh chuồn bay sức sống Ngọn gió nồm xao xuyến những bờ tre
(*) Giáp Đông là giáp Đông còi Con đam con rạm thì coi bằng vàng (Ca dao)
(246/08-09) |