Nếu cần tìm những điểm giống nhau giữa văn học miền Nam và văn học miền Bắc thời kỳ 1954-1975, vốn là hai nền văn học khác biệt vì những lý do lịch sử, tôi cho rằng có thể tìm thấy chúng trước hết ở tình cảm yêu quê hương và ở thơ tình. Thơ tình miền Nam khởi đầu từ Đinh Hùng, phát triển ở Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Tuệ Mai, Nguyễn Thị Hoàng, Phạm Thiên Thư, và nhiều người khác, kết thúc ở Nguyễn Tất Nhiên. Du Tử Lê là một trường hợp đặc biệt khác, vì sau này khi ở hải ngoại anh đã đi thêm rất xa con đường của mình khởi từ những năm sáu mươi, lúc anh viết: Không bao giờ đâu Donna Dù anh có yêu em Hơn bất cứ thứ gì trên đất Mỹ Thì anh cũng vẫn trở về (Indiana, 1969)
Đó là những câu thơ có tính báo hiệu. Nếu Đinh Hùng có thể xem là nhà thơ tình khởi đầu của miền Nam, thì Nguyên Sa là một trường hợp đặc biệt. Lớp chín, cuối trung học đệ nhất cấp, giáo sư dạy văn của tôi, thầy Đỗ Tư Nhơn về từ Đà Lạt, vừa giảng Truyện Kiều vừa giới thiệu nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn và những bài thơ tình Nguyên Sa cho chúng tôi. Là người của nhóm Sáng Tạo, mang tinh thần đổi mới, vượt qua văn chương tiền chiến, Nguyên Sa ý thức rất rõ về khung cảnh của một xã hội đang đối diện với chiến tranh và sự tan rã của các giá trị. Trong những bài lý luận và tùy bút về văn học, ông chia sẻ quan điểm của Sáng Tạo, ít nhất là thời kì khởi đầu, nhưng khi sáng tác, chàng thi sĩ từ Paris mới về, hoàn toàn buông mình theo cảm hứng tự nhiên: ông làm thơ tình bằng các thể thơ cổ điển. Giữa miền Nam nắng ấm vút lên giọng thơ ngọt ngào trong trẻo: Em ở đâu hỡi mùa thu tóc ngắn Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng
Rồi sau này Nguyên Sa sẽ trở lại với tâm trạng u buồn, bất an của thế hệ ông, thơ ngày càng tự do, phá thể, thơ ngày càng cay đắng, nhưng vào lúc này khi trò chuyện với người yêu, ông không nhìn ra cái chết và chiến tranh, ông không muốn nhìn nhận chúng, và vẫn trung thành với những tâm hồn độc giả lãng mạn. Thơ ông được yêu mến là đúng. Nhưng sau ông, sẽ có những dòng thơ tình khác. Tôi háo hức đọc những bức thư Paris của Minh Đức Hoài Trinh trên tờ Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, người sau này có những câu thơ đẹp: Kiếp nào có yêu nhau Nhớ tìm khi chưa nở Hoa xanh tận nghìn sau Tình xanh không lo sợ
Ở miền Bắc những nhà thơ tình phái nữ nổi tiếng cùng thời như Lý Phương Liên, Xuân Quỳnh… làm thơ cũng buồn, nhưng man mác, không có giọng đau đớn, tuyệt vọng như Minh Đức Hoài Trinh. Lẽ nào em buộc cánh anh Buộc cánh anh cũng chẳng thành tình yêu (Lý Phương Liên)
Suốt hai mươi năm, thơ tình miền Nam có số phận long đong, lận đận. Chiến tranh càng lan rộng, xã hội càng băng rã, người làm thơ tình càng ít, nhưng khi họ cất tiếng thì đó là những tiếng nói lạ lùng, gây bất ngờ ở người đọc. Ngang tàng như Nguyễn Đức Sơn, dịu dàng như Phạm Thiên Thư. Phạm Thiên Thư đưa tình yêu vào cõi thiền, hay nói như Thích Minh Châu, Viện trưởng viện Đại học Vạn Hạnh, đã “cả gan thi hóa Kim Cương kinh”, trong một lời giới thiệu. Những thế hệ thanh niên học sinh ở miền Nam, và hình như sau này ở cả miền Bắc và trong cả nước, đã từng nức nở với Phạm Thiên Thư và Phạm Duy: Em tan trường về Đường mưa nho nhỏ
Qua tiếng hát Thái Thanh nhẹ như tơ trời, rền vang như mưa. Thơ ông dịu dàng mà cũng cay đắng, nhưng không phải lỗi ở ông, đó là lỗi ở cuộc đời. Đọc thơ Phạm Thiên Thư thấy tình yêu vẫn còn. Nhưng đến Nguyễn Tất Nhiên, nổi tiếng trong những ca khúc do Phạm Duy phổ thơ, thì tình yêu theo nghĩa thông thường hầu như biến mất, nó trở thành một thứ tình cảm có có không không, thứ tình yêu của một tuổi trẻ mất niềm tin ở cuộc đời, sắp lao vào lửa. Nỗi buồn của người lính miễn cưỡng đi vào chiến tranh, một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi
Ngôn ngữ của Phạm Thiên Thư và Nguyễn Tất Nhiên không mới mà lại mới, mới mà lại không mới. Nhưng rõ ràng nó khác cách nói của các nhà thơ cổ điển và các nhà thơ ngoài Bắc cùng thời. Viết về chiến tranh, như những người lính, Nguyễn Bắc Sơn, Thế Uyên, Du Tử Lê, Y Uyên, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Vũ Hữu Định… và nhiều người khác đã ghi lại trong thơ họ một thời binh lửa. Chúng ta cùng đọc thử Tô Thùy Yên. Đò nghẹn đoàn quân xa tiếp viện Mưa lâu trời mốc buồn hơi xưa Con đường đáo nhậm xa như nhớ Chiều mập mờ, xiêu lạc dáng cò (Qua Sông)
Tô Thùy Yên là một trong những nhà thơ đứng ở cánh cửa cuối cùng của con đường thơ miền Nam, con đường khởi đi từ Vũ Hoàng Chương, mặc dù Tô Thùy Yên làm thơ từ sớm. Những bài thơ đầu để lộ ý thức làm mới ngôn ngữ, chúng được viết ở thể tự do; càng về sau ông càng làm thơ có vần nhiều hơn. Trong mảnh đất hẹp của thể thơ cổ điển, Tô Thùy Yên đã nâng nghệ thuật ngôn ngữ Việt lên đến mức tinh vi. Tôi chưa thấy một nhà thơ nào có cách dùng chữ đầy dụng công như ông.
Tôi nghĩ: một nhà thơ khi đứng trước những bi tráng lịch sử, những sự kiện khốc liệt, khi đối diện với nỗi xúc động bàng hoàng, thường trở về với thể thơ cổ điển, chọn lựa cách nói giản dị và thuận tiện, bỏ qua những bận tâm vốn có của anh ta về ngôn ngữ. Điều đó đúng với Tô Thùy Yên mà cũng đúng với nhiều nhà thơ khác.
Khoảng từ năm 1970, xuất hiện nhiều tác giả trẻ, một số mặc áo lính, trên các báo, nhất là ở các địa phương. Một số chưa có thời gian để in tác phẩm của mình. Tôi nhớ những tên tuổi như Y Uyên, Ngô Kha, Luân Hoán, Trần Hoài Thư, Trần Dzạ Lữ, Chu Vương Miện… Bắt đầu thành một dòng chảy khác, mà người chinh phục tôi nhất là Phan Nhật Nam.
Nhắc đến văn chương viết về chiến tranh, không thể nào không nói đến Phan Nhật Nam. Từ sau Tết Mậu Thân 1968, miền Nam thực sự ra khỏi cơn huyễn mộng sâu, cơn mê đắm ảo tưởng hoà bình dằng dặc. Mặc dù bao gồm nhiều thể loại, nhiều đề tài, nhiều nội dung, văn học miền Nam chưa bao giờ cảm nhận được sức nóng của ngọn lửa chiến tranh trên trang viết trực tiếp đến như thế. Tôi bắt đầu đọc Phan Nhật Nam từ năm mười bốn tuổi, còn quá nhỏ để hiểu tường tận và nhớ đầy đủ chi tiết, nhưng ấn tượng ngời ngời của Dấu Binh Lửa, Dựa lưng nỗi chết, Dọc đường số Một… là không thể nào phai được. Đọc anh, tôi hiểu ra rằng chỉ vài năm nữa, nếu không có gì thay đổi, tôi sẽ là một trong những người lính mang ba lô, súng đạn trên vai lội qua sình lầy, rừng thẳm, muỗi mòng, lội qua bom đạn như bao nhiêu người lính vô danh khác, chứng kiến những xóm làng lửa cháy, mẹ con dắt díu nhau chạy loạn, đụng trận với những kẻ người mà mình không hề căm thù, nhưng vẫn phải nổ súng. Đọc Phan Nhật Nam là đọc bi kịch của chiến tranh, những suy nghĩ về đời sống dân sự, những xung đột mà người trí thức không thể không đối diện. Lạ lùng thay, đọc anh, tôi cảm yêu đất nước mình hơn cũng như khi tôi đọc Khái Hưng, Nhất Linh, Vũ Bằng, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Nhật Tiến, Nhã Ca, Lê Tất Điều, Viên Linh, nhưng bằng một tình yêu cay đắng, tỉnh táo, khốc liệt, nghẹn ngào. Và giận dữ. Tôi từng có dịp được gặp, trong những giờ ngắn ngủi, Phan Nhật Nam, khi anh đến Canada và Hoàng Phủ Ngọc Tường, khi tôi về Việt Nam, ngồi trước các anh, hai nhà văn viết bút ký tài hoa nhất nước, cả hai đều cùng quê Quảng Trị với tôi, một chiến trường máu lửa, tôi nhận ra rằng bi kịch của cuộc chiến tranh sẽ còn đeo đẳng dân tộc chúng ta. Cho đến khi nào chúng ta chưa tìm được cách để trò chuyện với nó, giải thích nó. Muốn thế cần có thời gian, cần có sự tha thứ và can đảm. Rất nhiều tha thứ. Rất nhiều can đảm. Hai người đã chọn lựa hai con đường hoàn toàn khác nhau: họ chính là biểu tượng của chiến tranh vừa qua.
Tôi thiển nghĩ nghiên cứu văn học một giai đoạn không thể giới hạn vào một dòng văn học nhất định. Văn học thời kỳ 1945-1954, mặc dù kháng chiến là nội dung chủ đạo, vẫn còn những tác phẩm ở thành thị. Nhiều tác phẩm trong thời kì này, như tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, không có nội dung kháng chiến. Tương tự như thế sau 1954 không phải chỉ có văn học miền Bắc mà còn có văn học miền Nam, và ngược lại. Quá trình hình thành văn học Việt Nam trong nửa cuối thế kỉ hai mươi là tập hợp của các dòng văn học, nhưng đó không phải là một số cộng đơn thuần. Sự tồn tại song song của nhiều hơn một dòng văn học không phải là một hiện tượng mới lạ trên thế giới hay ở nước ta. Trong lịch sử đã có những dòng văn học riêng rẽ vừa đối kháng vừa bổ sung. Như văn học Đông Đức và Tây Đức thời chiến tranh lạnh, văn học của các tác giả Xô viết như Evtuchenko và các tác giả phi Xô viết như Brodsky. Nếu văn học miền Bắc là một nền văn học cách mạng, văn học xã hội chủ nghĩa, phục vụ thiết thực cho những đường lối của Đảng, “trước hết đó là văn học phục vụ chính trị”, “ghi chép những thành tích, những chiến công”, như cách nói của Lê Ngọc Trà (1), thì nó vẫn có khả năng, trong những tác phẩm văn học đích thực, thể hiện đúng tâm hồn của người Việt Nam, hay ít nhất là một bộ phận của nó, trong một giai đoạn lịch sử nhất định, đặc biệt là tình cảm yêu nước, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng. Đối với người đọc tinh tường, không bị chi phối bởi các định kiến cá nhân, các tác phẩm quan trọng của dòng văn học này, các tiểu thuyết, các bài thơ, các ca khúc đã thành công trong việc kêu gọi xây dựng một xã hội tốt đẹp, giải phóng dân tộc, gạt bỏ bi lụy cá nhân, tình cảm hi sinh cho chiến trường. Mặc dù cuộc chiến tranh đã để lại biết bao hậu quả đau buồn và các giá trị cổ điển của chủ nghĩa xã hội đã bị thách thức nặng nề hoặc bị phủ nhận, tôi vẫn tin rằng trong các tác phẩm miền Bắc thời kì ấy vẫn còn chiếu sáng một niềm tin trong sáng, cao cả, chân thành, có tính dân tộc, đã từng dẫn dắt hàng triệu người đi trên con đường mà họ tin là chân lý. Nhưng đời sống phức tạp hơn những bộ óc thông minh nhất và hiện thực luôn tạo ra những khúc quanh thử thách bất ngờ cho các giá trị tưởng là vĩnh cửu. Trong khi đó, văn học miền Nam cùng thời gian này, 1954-1975, đã truyền đi những giá trị khác, có tính phổ biến, cùng với ngôn ngữ của nó, một ngôn ngữ cũng có tính phổ biến, nhưng cả hai cùng chịu đựng một số phận cay đắng hơn. Ngày nay đọc lại một số các tác phẩm ấy tôi vẫn còn hình dung được bầu khí quyển vừa hồn nhiên thơ mộng, vừa sâu sắc buồn rầu, vừa tự do phóng dật, vừa đậm chất nhân văn.
Từ 1975 đến nay, lý luận và sáng tác văn học trên truyền thông chính thức đã có cái nhìn cởi mở hơn, đặc biệt vào thời kỳ đổi mới khoảng 1988 - 1993. Đáng tiếc, tôi nghĩ, nó hãy còn thất bại trong việc soi sáng đời sống xã hội miền Nam, các thành thị và nông thôn thuộc chính quyền miền Nam cũ, thời kỳ chiến tranh. Trong các tác phẩm văn học công khai trong nước ba mươi năm trở lại đây, có nhắc ít nhiều đến miền Nam dưới chế độ VNCH, tôi chưa từng may mắn đọc được một tác phẩm nào mô tả đúng thật hoàn cảnh mà tôi đã sinh ra, đã cắp sách đi học, đã vui chơi, đã hạnh phúc, đã đau khổ giữa cha mẹ, láng giềng, thầy cô, bè bạn, kẻ bên này, người bên kia, đã khóc trước xác chết của người thân, đúng như những con người mà tôi vẫn biết, những nhân vật cho đến nay vẫn chờ một ngày cuốn tiểu thuyết của họ được kể lại bởi các nhà văn am hiểu tường tận thời kỳ đó.
Mùa xuân năm 1972, một đơn vị nhảy dù VNCH dừng quân ở làng tôi. Những người lính tạm nghỉ dưới mái hiên, gần như không ai bước chân vào nhà. Tôi nhận thấy đó là những người lính chuyên nghiệp, kỉ luật, không làm phiền ai, nhưng có phần xa cách. Họ làm tôi hơi sợ hãi. Vậy mà có một người sĩ quan trẻ đứng bên cửa sổ rất lâu nhìn tôi học bài rồi tươi cười hỏi chuyện, hỏi mượn tôi một cuốn sách để đọc. Anh kể rằng anh quê ở Gò Công, có người yêu là sinh viên trường Dược khoa, khi anh tình nguyện vào nhảy dù, cô hỏi anh là “anh muốn chọn em hay là chọn cái mũ đỏ”. Anh đã chọn cái mũ đỏ và như thế, đành để mất cô. Đó là một chàng thanh niên da ngăm đen, gầy, cao, đẹp như tài tử. Không hiểu sao anh lại tâm sự với một chú bé nhỏ hơn anh nhiều tuổi, có lẽ lúc ấy anh nhớ người yêu quá. Sau này, tôi nghe nói rằng trong một trận đánh gần biên giới, anh đã trúng mìn cụt hai chân. Có người gặp anh ngồi trên xe lăn ở Tổng y viện Cộng hòa. Vài tháng sau đó, trong mùa hè đỏ lửa, một đơn vị bộ đội miền Bắc cũng đi ngang qua làng tôi. Đó là những ngày hỗn loạn, nhưng tôi cũng kịp nhận xét rằng so với những người lính miền Nam trước đó, những người bộ đội miền Bắc này trông ít tuổi hơn, nhưng có vẻ dạn dĩ, thân mật với dân chúng hơn. Có một người lính trẻ măng, mặt bầu bĩnh, nước da trắng hồng như con gái, quê ở Hà Nội, trò chuyện với tôi khá lâu. Anh kể rằng anh phải khai tăng thêm một tuổi để được đi chiến đấu ở miền Nam. Anh kể rằng mẹ anh là một nhà nghiên cứu, và khi đi anh còn thấy trên bàn làm việc của bà một cuốn tiểu thuyết tiếng Pháp, mà anh không đọc được nhưng nhớ cách đánh vần. Tôi nhận ra đó là cuốn “Bonjour Tristesse”, của Francoise Sagan, đã dược dịch sang tiếng Việt. Anh hỏi xin tôi một cuốn sách “để làm kỉ niệm”. Trước khi di tản, tôi cũng kịp tặng anh hai cuốn mỏng, “Buồn ơi chào mi” và “Thơ Nguyên Sa”. Không biết rằng anh có đủ sức mang chúng theo trong chiếc ba lô nặng trĩu của mình hay không. Sau 1975, tôi nghe tin anh đã mất tích trên chiến trường. Mỗi khi nghĩ về văn học và chiến tranh, tôi đều nghĩ đến hai người lính, ở hai bên chiến tuyến, yêu tiếng mẹ đẻ, yêu quê hương của mình, và chắc chắn là họ đã rất sung sướng nếu được dịp biết nhau, làm quen với nhau, trong những hoàn cảnh khác.
Gần đây trong nước, việc khôi phục văn chương tiền chiến, Thơ Mới, Tự Lực Văn Đoàn, đã tạo ra những nhận thức mới, góp phần vào việc làm phong phú hoá đời sống văn học và đời sống tinh thần của người Việt, giúp thế hệ trẻ hiểu đúng đắn hơn lịch sử. Đã có một vài cố gắng nhìn lại văn học miền Nam trong những bài viết rải rác đó đây của các tác giả mà tôi nhớ tên, tất nhiên là không đầy đủ, như Lê Ngọc Trà, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Phan Cảnh, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Huệ Chi, Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Bửu Nam, Trần Hoài Anh, Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Hồ Thế Hà. Báo Văn Nghệ, trang web của Hội Nhà Văn và một vài trang web trong nước khác cũng đăng lại một số tác phẩm miền Nam. Tôi nghĩ đó là nỗ lực, khởi đi từ những cá nhân tâm huyết, rất đáng trân trọng. Nhưng một nền văn học cần được nghiên cứu một cách hệ thống, với những tiếp cận đặc trưng cho nền văn học ấy.
Nếu có một thời điểm nào thích hợp để mỗi chúng ta ngồi xuống lắng nghe bài giảng của lịch sử, như những người học trò nhỏ, thì đó là thời điểm hiện nay. Tôi lớn lên ở làng quê nghèo, thuở bé lẽo đẽo theo mẹ đi giữa những luống cà chua, khoai lang, những cánh đồng bên bờ sông, trồng bắp, trồng đậu, trồng lúa, những buổi trưa lang thang bắt tổ chim, bắn súng cao su, tắm sông. Tôi đã sống qua chiến tranh, chứng kiến cái chết, sự đau khổ của bao nhiêu người, trong đó có gia đình tôi. Có điều lạ lùng là sau tất cả những năm tháng ấy, mỗi buổi sáng thức dậy, tôi đều có một cảm giác giống nhau, cảm giác êm dịu. Tôi tin rằng cảm giác ấy chỉ có được khi người ta sinh ra và lớn lên trong khung cảnh thanh bình thơ mộng, dù chỉ là tạm thời, được đọc những cuốn sách lãng mạn đầu đời, những cuốn sách mà về sau có người ném đi vì cho rằng chúng chẳng có giá trị phản ảnh hiện thực gì cả. Nếu người ta được đọc những cuốn sách như thế, được úp khuôn mặt bé bỏng của mình lúc lên chín tuổi giữa hai trang sách còn thơm mùi giấy mới, nếu người ta thức dậy một đêm khi lên sáu tuổi, ánh trăng chiếu sáng trên giường không ngủ được, bước ra hiên nhà, lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh một chú bé khác, lớn hơn hai tuổi, và chú bé ấy cũng ngồi im lặng ngước nhìn vầng trăng sáng vằng vặc trên trời, và hai anh em chẳng nói năng gì, thì người ta sẽ có được cái cảm giác mà tôi có mỗi ngày trong buổi sáng mờ hơi sương thức dậy một mình, đó là cảm giác tri ân êm dịu đối với cuộc đời.
Cái đáng sợ nhất đối với một số người, một số nhà văn là sự thật. Ai cũng biết rằng một người đọc sách sống cuộc đời phong phú hơn người khác. Sở dĩ như thế là vì anh ta hay chị ta được trải nghiệm thêm những cuộc đời khác nữa, tức là những sự thật khác nữa. Văn học cho phép chúng ta cảm xúc cùng nhân vật, sống cùng họ, đau buồn, giận dữ, sung sướng, say mê với những người ở các lục địa xa xôi, ở những thời tiết nắng mưa nay đã không còn. Chúng ta cảm thương những số phận bất hạnh, đôi khi tự đồng hóa mình với anh hùng hào kiệt, mơ ước sống cuộc đời như họ. Một độc giả Việt Nam hiện nay có điều kiện dễ dàng để biết thêm về văn học nước ngoài, như văn học Mỹ, Pháp, Đức, Canada, Úc, Ba Lan, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc... và vì thế tự làm cho đời sống tâm hồn họ phong phú hơn. Nhưng văn học miền Nam không phải là một nền văn học nước ngoài, nó được viết bằng tiếng Việt, được đọc bằng tiếng Việt, bởi những tác giả đã khuất bóng hay còn đi đi lại lại trước mặt chúng ta. Nói cho cùng, một người sinh ra ở miền Nam không bao giờ biết đến văn học miền Bắc, và giống hệt như thế, một người sinh ra ở miền Bắc không có điều kiện để hiểu biết văn học miền Nam, theo tôi không phải là một người may mắn lắm: anh ta là nạn nhân của thời đại mình, tự nguyện hay không tự nguyện.
Người ta đã nói nhiều về chuyện văn học cần thiết như thế nào. Có lẽ đúng là một cuốn sách không thay thế được cái bánh mì trước đứa trẻ đang đói. Hiện thực mà chúng ta sống trong đó đầy dẫy những ngẫu nhiên, diễn ra không thứ tự, không có tính tổ chức. Đối với nhiều người, mặc dù không phải là tất cả, cái chết là phi lý, chiến tranh là phi lý, sự đau khổ của từng cá nhân, sự bất hạnh của dân tộc là phi lý. Mặt khác, khía cạnh hào hùng của lịch sử trong khi thừa khả năng để giải thích tính bi kịch, thì lại không đủ khả năng giải thích sự tầm thường hèn mọn của nó. Bất cứ một sự thật giản dị nào, nếu không được hiểu thấu, cũng đủ sức làm một nhà văn sợ hãi: anh ta không biết phải làm gì với nó. Các thí dụ thì chúng ta có nhiều. Tuy nhiên tác phẩm văn học, ở trạng thái thành công nhất, có khả năng tổ chức lại cuộc đời, làm cho các sự kiện rời rạc, hỗn độn, mê loạn, hoàn toàn không hiểu được, được sắp xếp lại bên nhau trong những liên hệ nhân quả, làm cho số phận mỗi cá nhân, số phận một dân tộc có thể được giải thích rõ ràng, trở nên có ý nghĩa hơn. Và do đó, lịch sử trở nên chịu đựng được. Nó bắt đầu tha thứ cho chúng ta. Khi chúng ta bắt đầu biết dụng tâm tìm hiểu lẫn nhau, tức là biết nhìn sự vật từ góc nhìn của người khác. Mà các nhà văn không làm điều đó thì không ai làm trước họ được.
N.Đ.T (246/08-09)
---------------- (1) Lê Ngọc Trà, Thách thức của sáng tạo, Thách thức của văn hóa, trang 12, 13, NXB Thanh Niên, 2002.
|