Herta Muller được Hội đồng Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel vì hai lẽ: lối viết dồn nén, giàu tính triết luận và tinh thần phê phán triệt để chế độ độc tài tại Romania.
Không như cách nói mỉa mai, cay cú của giới phê bình Mỹ, rằng bà là người vô danh, người chưa từng ai biết tới; ngược lại, Herta Muller hoàn toàn xứng đáng là một nhà văn tầm cỡ ngay từ những năm của thập niên 90, với các tác phẩm nổi tiếng như: The Land of Green Plums, Nadirs, The Passport, The Devil is Sitting in the Mirro, The Guard Takes His Comb, The Appointment...
Tác phẩm của bà đã đặt ra câu hỏi day dứt về sự tồn tại của con người sau thế chiến thứ hai của Đức; nỗi đau thiếu vắng quê hương và niềm khao khát về một thế giới tự do.
Herta Muller sinh năm 1953 ở Banat, Romania - một miền thiểu số hẻo lánh nói tiếng Đức. Nơi mà bà luôn mang nỗi đau: “thiếu quê hương”, và phải chối bỏ để sống một cuộc sống lưu vong.
Mang trong mình dòng máu của người cha - một lính chiến SS, thuộc Đức quốc xã, Muller luôn bị ám ảnh bởi cái chết và tội lỗi. Sáng tác của Herta Muller phản ánh bi kịch của một thế hệ nhà văn sau thế chiến: nỗi hoang mang, hoài nghi về sự tồn tại của con người. Đó là cảm hứng chung của các nhà văn Nobel gần đây như Gunter Gras(1999) và John.W. Coetzee (2003).
Herta Muller là một thông dịch viên, nhà thơ kiêm nhà tiểu thuyết. Bà sử dụng hai thứ tiếng Đức và Romania; là thành viên của Viện Sprache und Dichtung, ở Darmstadt. Bà từng có những hoạt động thiết thực để đấu tranh cho tự do ngôn luận của giới trí thức. Vì lẽ đó, bà đã bị sa thải và các tác phẩm của bà đã bị kiểm duyệt gay gắt. Bà định cư ở Đức vào năm 1987.
Giải Nobel thuộc về Herta Muller, đó không chỉ là niềm vinh dự cho dân tộc Đức, mà còn là niềm kiêu hãnh cho chủ nghĩa nữ quyền (Féminisme). Chỉ trong sáu năm gần đây, ba nhà văn nữ trên thế giới đã đoạt giải Nobel văn học: E. Jelinek(2004) - tiểu thuyết gia người Áo, D. Lessing (2007) - tiểu thuyết gia người Anh, và H.Muller (2009).
T.H.S (249/11-09)
|