| 
 HÀ HUY TUẤN
 
 Sông
 
 
 Có gốc tre xanh
 Men theo bờ cát
 Lở xuống sông rồi
 Hút sâu đáy nước.
 
 Có trảng cỏ non
 Lam nham bò liếm
 Sông nuốt mất bờ
 Chẳng cần giấu giếm
 Có nhà em gái
 Ngày xưa tưới đồng
 Lùi xa xóm bãi
 Không còn gánh sông.
 
 Bãi bồi kí ức
 Đầy lên trong lòng
 Thương về bãi lở
 Đục ngầu mắt trong.
 1999
 
 
 ĐÔNG HÀ
 
 
 Những người đàn bà làm thơ
 
 
 Có thể là tình yêu...
 Tình cờ...
 hay ngẫu hứng...
 Họ làm thơ
 
 Về một điều ám ảnh những giấc mơ
 Những nỗi đau đa mang khó lòng ai
 chia xẻ
 Họ khóc trăng vấp làn gió xé
 Khóc cho mình đối diện đêm đen
 Những vần thơ vừa lạ vừa quen
 cho người yêu đã bỏ đi xứ khác
 cho mình cho bạn
 dù nỗi buồn tàn còn nóng bỏng trong tim.
 
 Những người đàn bà câm lặng giữa đêm
 Mắt bất động xoáy vào đời giông bão
 Họ thả thơ quay thành hoa pháo
 Nở lên trời đốm sáng ưu tư.
 
 Những người đàn bà làm thơ...
 
 
 VƯƠNG TÙNG CƯƠNG
 
 
 Đại Nội chiều
 
 
 Chiều vào thăm Đại Nội
 trơ ngai Rồng không Vua
 nước vàng son phếch bạc
 Điện chống chênh gió lùa
 
 Những uy quyền một thuở
 giờ bụi mờ rêu phong
 Cân đai cùng mũ áo
 hóa trang thành trò đùa
 
 Cỏ ngợp xanh lối xưa
 sen bập bùng đuốc lửa
 tiếng lũ trẻ vô tư
 say cánh diều đong gió...
 Huế - Hà Nội hè 1999.
 
 
 NGUYỄN VĂN HOA
 
 
 Chia xa
 
 Tặng các em bé mồ côi
 làm con nuôi xứ người
 
 Cò về trắng đảo Hòa Bình
 Đảo lành chim đậu địa linh chốn này
 Riêng em phải đi chiều nay
 Cánh chim lưu lạc phải bay cuối trời
 Lênh đênh đất khách quê người
 Phút chia ly em chỉ cười mà thôi
 Thời gian đâu có ngừng trôi
 Cò lạ thì đến, em thời biệt xa
 Nhớn lên dù xa quê nhà
 Đất lành chim đậu nhớ mà về thăm.
 
 
 BÙI ĐỨC VINH
 
 
 Nụ tầm xuân
 
 
 Quê mình nụ tầm xuân nở
 Thanh tao tựa hạt sương trời
 Hương vương thơm màu mong đợi
 Trẻ con làng thường hái chơi
 
 Triều đê chiều se sắt gió
 Tầm xuân rụng đầy lối thương
 Bướm vàng đậu giậu nhà khác
 Mười sáu tuổi bỏ mái trường
 
 Theo chồng bồng con ra phố
 Ngẩn ngơ nhìn áo dài bay
 Lòng nao nhớ thời bé nhỏ
 Tầm xuân nở trắng ngõ gầy...
 
 
 PHAN HỮU GIẢN
 
 
 Về với K'Long K'Lanh
 
 
 Nhớ hồi kháng chiến gian truân
 Bao người sống giữa tình dân đất này
 Mừng còn tay được cầm tay
 Lệ tràn lên mắt, đắng cay trong lòng...
 Nhớ vùng hậu cứ kiên trung
 Đói cơm, lạt muối, giặc lùng, giặc vây
 Nguồn Đa Nhim nước dâng đầy
 Như đang khát vọng những ngày tự do!
 Rừng xanh biêng biếc ước mơ
 Nước độc lập, dân ấm no đời đời
 
 Nhưng hơn hai chục năm rồi
 Bà con mình vẫn ngô khoai bốn mùa
 Nhà xiêu mái lá phêu thưa
 Bếp tàn đêm lạnh gió lùa căm căm
 Đồng hoang lũ quét mấy lần
 Xác xơ nghèo đói níu chân anh hùng...
 
 ... Tăng nguồn thu bảo vệ rừng
 Thôi nghề đốt rẫy làm nương ngàn đời
 Định cư, xây dựng vườn đồi
 Trồng cây công nghiệp, chăn nuôi bò đàn...
 Điện, đường, trường, trạm khang trang
 Dẫn dòng nước sạch, buôn làng tươi vui
 Lưu thông hàng hóa ngược xuôi
 Quyết tâm làm cuộc đổi đời nay mai...(***)
 
 Trách ai ngoảnh mặt, khoanh tay
 Lãng quên ý đẹp, lời hay một thời
 Nói nhiều, làm chẳng đến nơi
 Tốn công của, mất lòng người... xót xa
 Nghĩa tình hồ dễ phôi pha
 K'Long K'Lanh không thể nhạt nhòa
 tháng năm!
 
 -------------------------------------------
 (***) Tinh thần các Nghị Quyết, chính sách về xây dựng kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc ít người ở Tây Nguyên - Lâm Đồng.
 
 
 TÔ HOÀN
 
 
 Người đàn bà gánh than bán rong
 
 
 Người đàn bà gánh than bán rong
 Đôi vai mảnh dẫn cuộc đời bụi bặm
 Chéo khăn nhỏ làm sao che mặt lấm
 Tiếng rao mời "Ai... than!" vít cong.
 
 Người đàn bà gánh than bán rong
 Bàn chân đuổi thời gian vào hẽm phố
 Bếp ai nghèo mong than, chị nhớ
 Xuôi ngược dòng đời ai nhớ chị không?
 
 Người đàn bà gánh than bán rong.
 
 
 CHU MINH KHÔI
 
 
 Gửi quê
 
 
 Tôi xanh về phía ấy quê hương
 Nơi tôi ướp nỗi buồn mình xuống cỏ
 Thả nước mơ xanh khói bếp oằn
 trong gió
 Xao xác gầy trên mái rạ chênh vênh.
 
 Tuổi thơ tôi gửi lại phía đầu ghềnh
 Nơi gò chóc đất cằn vào thớ chóc
 Thủa ăn khoai thay bữa chiều đi học
 Cắp sách về trăng khuyết đậu
 sừng trâu.
 
 Cái nghèo không trói nổi ước mơ đâu
 Dẫu mẹ gọi tôi là Thằng sách vở
 Bạn bè cũ đã thành chồng thành vợ
 Chân lội bùn buốt nhói cánh đồng quê.
 
 Không đứa nào bước ra khỏi lũy tre
 Chỉ mình tôi chôn nỗi buồn xuống cỏ
 Ngoài hai mươi vẫn bạn cùng sách vở
 Ném nhọc nhằn cho quê mẹ mà đi.
 
 Quê hương ơi!
 Phía ấy nhắn nhủ gì?
 
 
 THU NGUYỆT
 
 
 Nói với biển
 
 
 Biển lại gần ta nói biển nghe
 Sóng dữ dội rồi cũng tan bờ cát
 Sâu cạn, đục trong, vẫy vùng phiêu bạt
 Biển rộng đến đâu cũng không thoát nổi bờ.
 
 Biển lại gần ta đọc biển nghe thơ
 Cũng dữ dội và ào ạt lắm
 Cũng chồm lên rồi tan vào xa thẳm
 Cũng loanh quanh không thoát khỏi phận mình.
 
 Biển lại gần ta tỏ với biển tình
 Tha thiết lắm và đa đoan lắm
 Rất đỗi thân quen, vô cùng lạ lẫm
 Sấp ngửa bàn tay mở nắm không ngờ.
 
 Biển lại gần ta kể chuyện ngày xưa
 Chuyện ngày sau, chuyện bây giờ ta biết
 Chuyện bia đá và điều bia miệng
 Trời vẫn nắng mưa, hoa vẫn nở yên lành.
 
 Ta biết mà biển dẫu trong xanh
 Không giấu nổi dòng hải lưu nóng lạnh
 Biển đầy thế làm sao không sóng sánh
 Nhưng chớ lo rồi nước cũng về nguồn.
 
 Biển lại gần ta nói biển đừng buồn
 Ta đá sỏi không tan vào biển được
 Nhưng chắc chắn một điều ta biết trước
 Phần khuyết mòn cũng về biển mà thôi.
 
 Biển lại gần đây để cùng ta vui
 Cùng ta buồn cùng ta suy gẫm
 Ta nói nhỏ một điều thật lắm:
 Ta có thể rời khỏi trái đất này, còn biển thì không!
 
 
 NGUYỄN NGỌC PHÚ
 
 
 Hỏi
 
 
 Tôi hỏi: Cây ơi?
 - Rễ người sâu lắm
 
 Gánh rơm thì nặng
 Gánh đá thì mềm
 
 Hao bấc còn đèn
 Hao người hết của
 
 Ta làm ra lúa
 (lúa sàng sảy ai?)
 
 Cá Đục, Cá Chai
 lưới trời bỏ ngỏ
 
 Cá Chim, cá Ngựa
 lưới người nhặt hơn
 
 Để cây xanh hồn
 Biển còn phải thẳm
 
 Ta ngồi nhặt nắng
 Vá lên cánh buồm.
 Đồ Sơn tháng 1-1999.
 
 
 Chị
 
 
 Cánh đồng mang thai lúa non
 Chị qua một thì con gửi
 
 (Cái Bống sao mày ở vậy
 Âm thầm nuôi trứng xoãi vây)
 
 Con tôm búng giật thót ngày
 Khế vườn bén hơi người lạ
 
 Giọt gianh kể về mái rạ
 Cây rơm góa  bụa đội nồi
 
 Cơn sốt rừng già - chị ơi!
 Ăn mòn một thời tuổi trẻ
 
 Ra đường gặp toàn người lẻ
 Đêm về ấp bóng vào chăn
 
 Chị - mang - thai - cả - cánh - đồng
 
 
 HUỲNH MẠNH TIÊN
 
 
 Lộc
 
 
 thật diệu kỳ xác chữ rơi
 những vòng đồng tâm
 mang tôi lan lan diệu vợi
 xa dần các vết sẹo đồng âm
 
 thật diệu kỳ:
 bỗng dưng tôi khoái nằm ngửa
 - thả tàu nhìn mây rơi chữ sổ
 bên em
 Pâques - IV.99
 (Saint-Denis/Paris)
 
 (128/10-99)
 
 
 
 
 
 
     |