| 
 
 
 
 
 
 
 HỒ THẾ HÀ
 
 
 Ký ức mẹ
 
 
 Mẹ sinh tôi trong đêm giông gió
 Bà ngoại mờ lần vách đi quạt lửa
 Dì tôi hối hả mời bà mụ quê
 Bố đi xa, xa lắm không về.
 
 Ôi! cái đêm âu lo và sợ hãi
 Mẹ vượt cạn xanh như tàu lá
 Cái năm làng mất mùa
 Cái đêm mưa lũ
 Cái giờ buồn nhất mẹ sinh con
 
 Bao năm rồi giờ vẫn còn nguyên
 Mẹ vẫn mơ thấy cái năm ruộng đói mùa
 Tuổi thơ con đói sữa
 Bao giờ nhắc cũng rưng rưng
 
 Con lớn lên có gì ngoài tình thương
 Ngoài nỗi muộn sầu của Ngoại và mẹ
 Ngoài những bạn bè dáng quê nâu.
 
 Giờ đi xa
 Buốt nhức trong tôi một miền quê ký ức
 Một chân trời mẹ chong mắt thức
 Là chuỗi buồn mẹ đã uống thay tôi
 
 
 LƯU LAM THI
 
 
 Thơ viết trong đêm
 
 
 Tôi với tay lên tường xé tờ lịch
 Và xòe diêm
 Lưỡi lửa màu lam liếm vào đêm
 Lạnh ngọt
 Bóng đêm vỡ tan
 Loảng xoảng rơi vào ký ức từng mảng màu đen
 Như tiếng cười man rợ của gió
 Như nụ hoa cựa mình rặn nở
 Từ những đài xanh ôm chặt một đời
 Lưỡi lửa màu lam liếm vào tôi
 Khét mùi tóc cháy
 Con dế tuổi thơ rên rỉ trên cánh đồng khô dậy mùi phèn
 Tôi thấy bà còng lưng ngược đường thông thốc gió
 Đội chợ quê trong chiếc mủng con nâu óng mây rừng
 Cha tôi xòe bàn tay chai xước về phía mặt trời
 Nắng vẫn mãi sôi
 Tôi thấy mẹ quần xắn móng lợn tất tả đi về phía mặt trăng
 Quảy về một gánh đầy
 Tưới lên cánh đồng nứt nẻ như con thú há mồm đe dọa
 Những chiếc răng của chúng ngập vào con dế
 Tuổi thơ dẫy lên như bóng đen trên tường nhảy múa
 Vũ điệu không lời
 Lưỡi lửa màu lam liếm vào tôi
 Liếm vào đêm
 Trong tiếng vỡ tan của bóng đen tôi nghe gà gáy
 Và hình như dằng đông sao Mai đang cháy
 Gọi bình minh về từ cõi thâm u..
 
 
 ĐÀM LAN
 
 
 Chập chờn
 
 
 Những giọt lệ rồi sẽ khô đi
 Những tiếng cười rồi cũng rơi vào quên lãng
 Nhưng những trang đời ngọt đắng
 Vẫn chập chờn lần giở đến muôn sau.
 
 
 ĐOÀN MẠNH PHƯƠNG
 
 
 Ngẫu cảm Hà Nội
 
 
 Nhịp ngày hối thúc
 Với bước đi ngùn ngụt đam mê
 Tựa lưng tiếng mọt nghiền xưa cũ
 Nơi những giấc mơ xưa nghèn nghẹn hiện về…
 
 Những mái ngói thời gian xám xẫm
 và con đường bươn bả những vòng xe…
 
 Lòng gian díu tâm hồn
 thẳm xanh
 ngày phố cổ
 Lời mưa phùn trong gấp gáp người đi
 Bao xác chữ
 ngủ ngầu
 trang ký ức
 Sao có thể hà hơi nóng lại trái tim người?
 
 Những đứa trẻ ham chơi không thuộc bài lịch sử.
 đã bóc đi lớp sơn cuối cùng của thời gian còn
 in dấu trên tường
 Thế Rồng đã cựa mình trong bức phù điêu cổ,
 nơi ngày hôm qua ngào ngạt ngước nhìn…
 
 Sớm nay,
 những chiếc lá mùa thu rơi trên thành Hà Nội
 đang mơ về
 rung vết nứt đầu tiên…
 
 
 VƯƠNG ANH
 
 
 Lá về
 
 
 Lá về! Lá về
 Bừng nở lòng thung thần thoại
 Liêu Lang mời lá dong về
 vào khuôn ủ bánh chưng bốn góc
 Để muôn đời ai cũng chuốt che.
 
 Lá về! Lá dong về!
 Âm thanh cồng chiêng chờ nở
 Suối chờ vỗ lá sóng xênh
 Khăn piêu phập phồng gùi lá
 Lâng vâng đón cội về làng.
 
 Lá về! Lá dong về!.
 Đốm điện khát khao lưng chừng núi,
 Lá dong nghiêng láng bạc sàn nhà,
 Khăn áo cuộn cào chọn lá
 Mắt ai liếc búp tay ngà?
 
 Lá về! Lá dong về!
 Lời reo, chỉ dành cuối chạp
 Lời mời, bén tối ba mươi
 Ai kịp dỗi hờn ngày đón lá
 Cho núi sông khiêng cả nụ cười!...
 
 
 MAI HOÀNG MAI
 
 
 Mai em có về không ?
 
 
 Mai em có về không? Trời mưa rả rích
 Mùa đông hóa đá tình anh
 Mưa chẳng tạnh, bờ vai càng lạnh buốt
 Nỗi đợi chờ ngâm ngẩm chồi xanh.
 
 Mai em có về không? Một cơn gió thoảng
 Lời thầm thì trong hơi ấm chăn bông
 Hơi thở dập dồn, ngắt quãng
 Chỉ còn là kí ức trống không...
 
 Mai em có về không? Cánh cửa phòng hờ khép
 Xối vào anh điếng người
 Len lén những luồng giá rét
 Cũng chưa bằng nỗi nhớ tuột trên môi.
 
 Mai em có về không? Bừng lên chiếc gối đôi
 Giọt nước mắt em từng để lại
 Xuân đã tràn về long lanh dấu hỏi
 Mai em có về không?...
 -Xuân 2000-
 
 
 NGUYỆT ĐÌNH
 
 
 2 ngàn năm mới nhớ ngàn xưa
 
 
 Thức ăn chừ nấu bếp ga,
 Nước, cơm nồi điện-
 thịt gà nướng than,
 Mẹ xưa chụm nắm lá bàng,
 Một vày rơm rạ,
 Tổng làng khen ngon,
 Bây chừ chảo chảo, soong soong
 Mẹ xưa kho “tréc” *
 Nấu cơm “om bù” *!
 Nuôi con chẳng đứa nào hư,
 Lập làng, dựng nước-
 xưa, chừ, mai sau
 Bốn ngàn năm sử qua cầu,
 Đừng quên đọt bí, **
 rau bầu bụi tre ***
 Vào xuân 2000
 
 ---------------------------
 * Dụng cụ kho, nấu bằng dất nung
 ** ý: “Bầu ơi thương bí lấy cùng...”
 *** Vũ khí của Thánh Gióng đuổi giặc Ân
 
 
 H.MAN
 
 
 Nghịch lý
 
 
 Câu thơ mùa xuân viết giữa đêm mưa
 Những cánh mai vàng nở trong tin áp thấp
 Người vui trước niềm vui kẻ khác
 Nỗi buồn trong mình
 Cứ mãi cư lưu
 Con chim én kêu trong tiếng gầm gào của gió
 Chén xuân đầu cùng dự báo bão xa
 Bài hát xuân run nỗi nhớ quê nhà
 Mái tranh dột
 Mẹ quờ tay ngăn nước lũ
 Những bông nếp ngâm niềm vui cuối vụ
 Cũng bàng hoàng trên ngọn đĩa xôi thơm
 Những giọt mồ hôi
 Đổi những miếng cơm
 Thấp thỏm lời sục sôi bão lũ
 Câu thơ xuân viết lưng chừng đêm mất ngủ
 Nghe tiếng lòng mình như những tiếng mưa...
 Tháng 12/98
 
 
 LÊ LÂM ỨNG
 
 
 Bến níu
 
 
 Em đi học Liên Xô
 Nay từ Nga trở về,
 Nỗi buồn còn đọng lại
 Trong mắt cười ủ ê!
 
 Tuyết xanh Pautốp Ki
 Rắc gốc sồi của Lép *
 Hương hồn Patécnắc
 Ráng hồng trong khói bay
 
 Rượu nào làm em say
 Tình nào làm em thắm
 Kìa vầng trăng sóng sánh
 Dòng sông Hương trăng xòe.
 
 Đi mãi rồi cùng về
 Tình em là vầng trăng
 Đất quê là bến níu
 Mọi cánh diều vu vi!
 
 ---------------------
 *Lép: Liép Tônxtôi
 
 
 VĂN HỮU TỨ
 
 
 Tĩnh lặng vô biên
 
 
 Pho tượng đá biệt tích trong cánh rừng cọ
 Loài chim hóa thân
 Vành đai lửa sáng rực
 Đường chân trời hư ảo
 
 Thánh thót tiếng đàn Lyre
 bay vào vực xoáy
 Những bông hoa rét mướt
 tận nguồn cao
 Thời gian ướt đầm nhã nhạc
 
 Loài hoa thảo dã héo khô
 Đám mây màu xám tro huyền thoại
 Vô biên tĩnh lặng
 
 Lung linh vầng sáng sao trăng
 Em nói gì về ca dao đồng cỏ
 Em nói gì về mùa xuân trong vắt?
 Huế xuân 2000
 
 
 NGUYỄN THẾ THẮNG
 
 
 Huế cuối mùa
 
 
 Những vệt nắng từ kẽ mây chiều sót
 Khảm vào hàng chữ phủ rêu
 Những xích lô bên vệ đường ngái ngủ
 Hộp thuốc rỗng tuênh ngày cũ mốc màu
 
 Những phiến đá hằn dấu thời gian
 Và bàn tay người đục đẽo
 Vẻ mệt mỏi trầm ngâm một cõi
 Hờ hững nhìn nhau
 Từ đâu ngồi như năm tháng
 
 Huế chiều thu chầm chậm
 Ngẩn ngơ du khách
 Để những xích lô ngon giấc giật mình.
 1999
 
 (133/03-2000)
 
 
 
 
  
     |