Theo dòng chảy của tri thức và sinh hoạt văn hóa, các trường phái văn nghệ sinh ra là để... chết. Chết khi hết vai trò. Và lưu lại trên sân sáng tạo của ngôi nhà nhân loại một viên gạch của riêng mình.
Nói về trường-phái-nhóm thơ theo cùng thi pháp, phong cách, hơn một thế kỷ qua ở Tây phương, nhất là Pháp, Mỹ đã từng rực rỡ biết bao mặt-trời-thơ nhỏ to khác nhau. Với thơ Việt, từ sau thời Thơ Mới tới thời hiện đại rồi Hậu hiện đại, cũng đôi lúc lấp lánh các vì sao lạ, dự phần tỏa sáng bầu trời thơ ca nước nhà.
Trước 1975: Hai “khuôn viên văn nghệ” là nhóm thơ Bình Định 1936-45 (đưa tới trường thơ Loạn) và nhóm Sáng Tạo 1956-65 đều không là các tập hợp văn học về thi pháp có tính cách mạng mỹ học như hai nhóm Xuân Thu Nhã Tập 1939-42 (cả lý thuyết và thực hành), và nhóm Dạ Đài (với tuyên ngôn Tượng trưng 1946, được hội thảo quốc tế 2006 của Viện Văn học Việt Nam (1) xem xét - có lẽ lần đầu? - như một thi phái Việt chưa kịp thực hành.)
Sau 1975: Nhóm thơ Tân hình thức Việt (2) với lý thuyết và thực hành gây tiếng vang đáng kể trong thi giới, từ ngoài nước tới trong nước, kể từ năm 2000 đến nay. Mới nhất là tuyển tập song ngữ Thơ Kể - Poetry Narrates (NXB Lao Động, 5-2010) với 22 tác giả Việt toàn cầu. Đây là tuyển tập thứ hai, và là đầu tiên in ở trong nước, của thơ Tân hình thức Việt. Nhóm thơ Mở Miệng ra đời 2001, tạo “tăm tiếng cùng tai tiếng” trên báo chí, trang mạng văn nghệ các năm 2003-06 và cả tới nay, nhưng chủ yếu là ở các vấn đề “ngoài thơ”.
Đã mươi năm rồi, một cao trào - với đúng nghĩa của nó – mang tên Hậu hiện đại, được thực hiện ở văn học Việt, nhất là thơ và tiểu thuyết, trong lẫn ngoài hình chữ S, có tới hàng chục người viết cứng cỏi. Ngay trong dòng chính cũng ngày một tăng, với Nguyễn Bình Phương và Mai Văn Phấn, với Inrasara và Thuận, với Nguyễn Quang Thiều và Lê Anh Hoài, v.v... Đó là chưa tính các tay bút vang danh từ thời Đổi mới có các dấu hiệu Hậu hiện đại như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài...
Về sách xuất bản, dù chưa nhiều để giới sáng tác tham chiếu, cũng đã có một số khảo cứu, giới thiệu vấn đề Hậu hiện đại của các nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hưng Quốc, Trần Quang Thái, Hoàng Ngọc-Tuấn, Phương Lựu, Nguyễn Văn Dân... và sách dịch của các dịch giả Ngân Xuyên, Nguyễn Ước, Trần Tiễn Cao Đăng...
Lãnh vực phê bình văn học và phê bình truyền thông cũng đạt mức trào lưu với đóng góp hữu hiệu của rất nhiều nhà nghiên cứu, phê bình như Hoàng Ngọc Hiến, Phạm Xuân Nguyên... Có lẽ chỉ còn yếu về phê bình hàn lâm, nghiên cứu bài bản, giảng dạy khoa bảng?
Nhưng, tư duy Hậu hiện đại Việt vẫn còn như một thách đố, chưa được nhiều người sáng tác, phê bình và nhất là độc giả nhìn nhận là cơ sở của một dòng văn-học-thật. Mà bị coi như thứ dị ứng xã hội bằng chữ nghĩa, như lối quậy phá văn chương truyền thống, mẫu mực và hiện đại, hay như một thứ giả-văn-học. Qua một số bài vở đáng chú ý gần đây (Những bài giới thiệu các nhà thơ Hậu hiện đại Việt của nhà thơ-nhà bình luận Inrasara(3); Phỏng vấn trên báo mạng Tổ Quốc và trên Tạp chí Thơ (Hội Nhà văn VN) của nhà nghiên cứu Trần Thiện Khanh; Mới nhất là thảo luận bàn tròn trên mạng của nhà thơ Phan Nhiên Hạo(4), chúng tôi thấy cái khó ló ra từ văn hóa tiếp nhận, từ cách đọc của người Việt, chứ chưa hẳn do văn phong hay nội dung của văn chương Hậu hiện đại Việt.
Chẳng hạn... Câu hỏi dễ nảy ra: trong 18 thi sĩ của danh-sách-Inrasara ở cuốn “Thơ Việt, từ Hiện đại đến Hậu hiện đại”, những ai Hiện đại, những ai Hậu hiện đại, những ai từ Hiện đại đến Hậu hiện đại, và đoán trước những ai Hậu hậu hiện đại?
Rồi đến việc mỗi tác phẩm, ngay cả của một tác giả, thường có một bút pháp riêng. Ai cũng kêu trời đất rằng, Hậu hiện đại quá nhiều sách vở lý thuyết, cuốn nọ cãi cuốn kia. Nó đa thanh tới mức không thể đồng thanh trong một lý thuyết văn hóa chỉnh tề.
Còn ý thức Hậu hiện đại? Lưng lạc đà chất gì lên cũng được! Không là trường phái, Hậu hiện đại không có phương pháp luận ổn định và nghiệm đúng cho mọi tác giả, cho mọi tác phẩm của một tác giả. Không chừng đó là “Phản Hậu hiện đại”? Mà Phản Hậu hiện đại lại chính là Hậu hiện đại! Trong tất cả các khuynh hướng của văn thơ, chắc chỉ Hậu hiện đại chấp nhận sự phản?
Lại còn một loại phản biện khác, rất là... Hậu hiện đại: “Không cần cổ xúy nữa! Trò chơi Hậu hiện đại đâu còn mới mẻ với các tác giả Việt Nam. Ngay ở chính quốc của thơ Hậu hiện đại là Mỹ, nó đã đi xuống vài chục năm rồi!” Đó là logic rất thường trực trong mọi tranh luận, ở các nơi sự kiện xảy ra sau và các chốn chậm phát triển. Một logic không công bằng! Thuận lý mà bất tình. Là nơi có sở đoản về học thuyết, đương nhiên châu Á và Việt Nam sẽ mãi đi sau phương Tây trong các trào lưu, nhóm phái. (Nếu không muốn nói theo lối cũ: chủ thuyết của phương Đông là không chủ thuyết!) Nhưng không vì thế khi thấy họ bỏ, mình cũng bỏ theo, dù chưa dùng hết cho hợp với xã hội mình, con người mình. Hậu hiện đại Mỹ đi vào thoái trào, xét cho cùng, là việc của người Mỹ. Dân Việt nếu như bỗng “xông lên” cao trào Hậu hiện đại Việt, lại là câu chuyện khác!
Qua biết bao bàn thảo, với chúng tôi, điều “chốt” lại là lập luận như sau của nhà nghiên cứu người Nga Konstantin Kornev(5): “Chủ nghĩa Hậu hiện đại đem lại cho con người phương Đông cơ hội chiến thắng văn hóa Tây phương trong chính mình, chiến thắng tính duy lý Tây phương đã bóp méo ý thức hắn, nhờ chính thuốc trị Tây phương. (...) Như vậy, Hậu hiện đại có hai bộ mặt – Đông và Tây. Cái ở phương Tây là sự tự hủy, thì ở phương Đông lại là sự giải phóng và sự trở về mình.”
Thiết nghĩ, xã hội Việt và văn học Việt có thể còn dai dẳng với các điều kiện Hậu hiện đại 10-20 năm nữa.
Thi ca là triết học cất cánh, bay vào hoặc bay ra trái tim người.
Chúng ta cần có một chương trình nghiên cứu hệ thống và thực dụng về các hướng đi mới-khác-lạ của thơ ca Việt Nam mà trước đây nó chưa đi hết, đến nay nó chưa đi tới...
Văn hóa nào cũng có thơ ca làm tinh hoa. Từ lâu chúng ta thường an phận rằng, văn hóa Việt không có luận thuyết theo quan niệm phương Tây. Trong bốn nhóm, trường thơ Việt Nam xứng danh mà chúng tôi thử đề xuất – đó là: nhóm thơ Bình Định/trường thơ Loạn, nhóm Xuân Thu Nhã Tập, nhóm Dạ Đài và nhóm Tân hình thức Việt, thiển nghĩ, nhóm Xuân Thu Nhã Tập(6) đến nay duy nhất có lý thuyết thơ hài-hòa-Đông-Tây và thực hành đủ thuyết phục về chất-thơ; thế nhưng trên thực tế vẫn bị xem là không thành quả. Trái thơ Xuân Thu Nhã Tập hậu thế khó ăn nổi, chỉ nên ngắm và tôn thờ.
Chỉ trong mười năm qua, cũng đã có thêm một số khởi xướng, tìm hiểu và thử nghiệm về cách-làm-thơ-Việt, của những tác giả độc lập chưa được, hay chưa thể, trở thành “trường phái” hoặc trở nên có lý luận. Với sự theo dõi hạn hẹp, chúng tôi muốn dẫn ra các điển hình như Lý thuyết Cấu của nhà thơ-nhà lý luận Khải Minh(7), các thủ pháp, kỹ thuật mới như Thơ phụ âm của nhà thơ Đặng Thân(8), Thơ thực hiện của nhà thơ Nguyễn Tôn Hiệt(9), và của đôi ba thi sĩ khác nữa mà hầu hết đều chuyên chở các yếu tố Hậu hiện đại.
Cuối cùng, xin mạnh dạn đề nghị “Hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài”lưu tâm một đề tài xứng đáng làm vùng sáng trong thơ Việt, cần được thể hiện trên văn đàn quốc tế. Đó là trào lưu trường ca Việt Nam!(10)
Quan niệm rằng, thể loại như một thi pháp, cảm hứng chủ đạo như một phương pháp, chúng tôi chia sẻ cùng nhận định của nhà nghiên cứu văn học Chu Văn Sơn(11), “về thể loại, sự bùng nổ của trường ca có lẽ là hiện tượng đáng kể nhất của thơ Việt Nam từ nửa sau thế kỷ 20 đến giờ”.
Với thống kê sơ bộ còn nhiều thiếu sót, danh sách tác giả và tác phẩm trường ca Việt Nam của chúng tôi cho thấy, kể từ thời Thơ Mới tới nay, có 122 nhà thơ Việt Nam đã viết ít nhất một trường ca hoặc một bài thơ dài có ý nghĩa tương đương. Trong danh sách này, một cách tương đối, có thể xem Phạm Huy Thông là trường ca gia Việt Nam đầu tiên với tác phẩm nổi tiếng “Tiếng Địch Sông Ô” ra đời năm 1935, và mới nhất là Trương Thìn với “Mấy Cõi Rong Vui” vừa ra mắt ở TP HCM vào giữa tháng 5/2010. (Mời coi phần Phụ Lục).
Đội ngũ các nhà trường ca Việt đó từng có cả một “trung đội” lừng danh từ những năm tháng khói lửa chiến tranh 1962-75 và sau đó vài năm là Thu Bồn và Thanh Thảo, là Nguyễn Khoa Điềm và Hữu Thỉnh, là Anh Ngọc và Nguyễn Đức Mậu... được nối tiếp tới thời hậu chiến là những Trần Mạnh Hảo và Thi Hoàng, Nguyễn Trọng Tạo và Hoàng Trần Cương, Trần Anh Thái và Nguyễn Quang Thiều... Còn Trần Dần và Lê Đạt - hai tác giả quan trọng khác của trường ca Việt - thì đã đưa thể loại văn học ngoại cỡ này tới tầm kích lạ lẫm về ngôn từ và sâu sắc về nhân sinh. Ở ngoài nước, ít ỏi không thành phong trào, nhưng cũng có các tác giả với những đóng góp thay đổi cần thiết về cả hình thức, cấu tứ lẫn nội dung, cảm hứng của trường ca Việt; đó là Du Tử Lê và Cao Đông Khánh, là Trần Nghi Hoàng và Đỗ Quyên.
Trường-phái-trường-ca-Việt-Nam – nếu có thể gọi như vậy – đặc sắc và Việt tính! Đó không là một tập hợp có chủ định, có đường hướng của nhóm các thi sĩ chung phương pháp, quan niệm theo một nhóm phái thông thường. Đó là phản ứng dây chuyền sáng tạo“đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” có ý thức của từng nghệ sĩ hòa cùng cảm xúc tráng ca của đất nước và sử thi của dân tộc trong một thời đại bi hùng của nhân loại. Qua thập niên đầu thế kỷ 21, con sông trường ca Việt hiện đại ấy cũng trở mình theo tâm thức chung của văn học Việt Nam và thế giới, từ thể tài, cấu trúc đến giọng điệu, ngôn ngữ(12). Và, lẽ tự nhiên, đã có không ít biểu hiện của trường ca Việt mang gương mặt Hậu hiện đại.
Văn giới Việt đang tung mở. Thi hứng Việt đang bung nở. Thúc đẩy các khuynh hướng, trào lưu thơ Việt đương đại cũng là hiện đại hóa một dân tộc thi sĩ, một đất nước thơ ca.
Vì một dòng thi ca Việt Nam trên cơ sở của lý thuyết, của phương pháp!
Để cùng dựng lên Làng Thơ Việt trong Làng Văn hóa Toàn cầu... *)
Canada & Việt Nam, 1/12/2009 – 7/7/2010 Đ.Q (257/7-10)
-------- *) Tu chỉnh từ Tham luận cho “Hội nghị quốc tế giới thiệu văn học Việt Nam ra nước ngoài 4-10/1/2010, Hà Nội, Việt Nam; và bổ sung phần Phụ Lục so với bản đã đăng trên Tạp chí Sông Hương số 257, tháng 7/2010.
[1] Hồ Thế Hà: Quan niệm về thơ của nhóm Dạ đài (vienvanhoc.org.vn) [2] Đặng Tiến: “Tân hình thức nhịp đập của thời đại” (thotanhinhthuc.org) [3] Inrasara: Thơ Việt, từ Hiện đại đến Hậu hiện đại (inrasara.com) [4] Phan Nhiên Hạo: Văn chương hôm nay nhìn từ ngoài lề (litviet.com) [5] Konstantin Kornev (Ngân Xuyên dịch): Chủ nghĩa Hậu hiện đại phương Tây và phương Đông (chungta.com) [6] Lê Thụy Tường Vi: Chủ nghĩa siêu thực và Xuân Thu Nhã Tập (khoavanhoc-ngonngu.edu.vn) [7] Khải Minh: Ngày nào thơ Việt Nam chưa có lý thuyết mới thì… (vanhocnghethuat.org) [8] Đặng Thân: Thơ phụ âm (alliteration) [& tôi] (tienve.org) [9] Nguyễn Tôn Hiệt: Tuyên ngôn về Thơ Thực hiện(tienve.org) [10] Đỗ Quyên: “Đến trường phái thơ Việt từ cảm thức trường ca Việt” (Bản thảo tiểu luận) [11] Chu Văn Sơn: Thanh Thảo với trường ca (vietvan.vn) [12] Diêu Thị Lan Phương: Yếu tố tự sự trong trường ca trữ tình hiện đại (vienvanhoc.org)
Phụ Lục:
313 Tác giả trường ca Việt Nam – Danh sách phác thảo (Trích bản thảo sách “Một cách tìm hiểu trường ca Việt Nam”)
Đây đang là phác thảo cho một công việc không dễ dàng - và có lẽ là lần đầu tiên - về “tác gia trường ca Việt Nam”.
Ngoài một số rất ít tác giả là thi hữu đã cung cấp trực tiếp tác phẩm, nguồn tham chiếu chính của chúng tôi là các trang mạng, vì không thể về Việt Nam thường xuyên để cập nhật sách báo đã xuất bản. Thành thật xin lỗi về các thiếu sót chắc sẽ có ở mọi mặt, như tiêu chí tuyển chọn, vấn đề văn bản và xuất bản, v.v… - nhất là với các tác giả hiện chưa có trong danh sách này!
Cũng bởi thế, chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp cũng như thông tin về tác phẩm, tác giả trường ca Việt Nam. Các ý tưởng, thảo luận và bài vở thích hợp – khi được người gửi cho phép - có thể tham gia làm nội dung của cuốn sách. Chân thành cám ơn những giúp đỡ vô giá của quý vị tác giả và bạn văn gần xa!
Thư từ, bài vở xin gửi về: Đỗ Quyên, email: truongcaviet@yahoo.com
(Tên in nghiêng: Tác giả chỉ viết thơ dài có tính trường ca)
Thụy An Trần Xuân An Duyên Anh Đặng Nguyệt Anh Hoài Anh Vương Anh Nguyễn Đình Ảnh Việt Ánh Nguyễn Lương Ba Nguyễn Bá Ngọc Bái Lê Ngọc Bảo Phan Thị Bảo Nguyễn Nguyên Bẩy Nguyễn Thị Bích Nguyễn Thị Thanh Bình Nguyễn Trung Bình Lê Bính Nguyễn Bính Nguyễn Đức Bính Nguyễn Trọng Bính Thu Bồn Nhã Ca Thái Can Hoàng Cát Văn Cao Đào Cảng Hoàng Cầm Huy Cận Nguyễn Quốc Chánh Trúc Chi Nguyễn Việt Chiến Phan Đức Chính Vũ Thành Chung Kim Chuông Nguyễn Văn Chương Vũ Hoàng Chương Hoàng Trần Cương Võ Bá Cường Võ Tấn Cường Trần Dần Miên Di Nguyễn Đình Di Xuân Diệu Nguyễn Văn Dinh Phạm Tiến Duật Trương Thị Kim Dung Lê Anh Dũng Thế Dũng Trần Tiến Dũng Khương Hữu Dụng Nguyễn Duy Lưu Trùng Dương Trần Trung Đạo Lê Đạt Văn Đắc Hà Thanh Đẩu Khuất Đẩu Nguyễn Khoa Điềm Trinh Đường Nguyễn Hoàng Đức Nguyễn Quí Đức Kiên Giang Lam Giang Phan Trường Giang Thái Giang Đoàn Huy Giao Hà Giao Tế Hanh Nguyễn Xuân Hanh Thúc Hà Nguyễn Hưng Hải Phan Tấn Hải Nguyễn Thị Lâm Hảo Trần Mạnh Hảo Phan Nhiên Hạo Nguyễn Trung Hậu Đặng Hiển Trần Quang Hiển Vũ Hiển Ngọc Hiền Nguyễn Tôn Hiệt Nguyễn Hiếu Ngọc Thiên Hoa Đông Hoài Trịnh Bửu Hoài Nguyễn Chí Hoan Lưu Quốc Hòa Nguyên Hồ Trần Ninh Hồ Nguyên Hồng Nguyễn Thị Hồng Luân Hoán Phan Hoàng Thi Hoàng Trần Nghi Hoàng Xuân Hoàng Đặng Tiến Huy Nguyễn Thành Huy Đinh Nho Huề Cầm Hùng (Thái) Đinh Hùng Văn Công Hùng Lưu Đình Hùng Vũ Hùng Vũ Trọng Hùng Đặng Đình Hưng Hoàng Hưng Vũ Xuân Hương Tố Hữu Trần Công Hữu Inrasara Đỗ Kh. Dương Tam Kha Đào Anh Kha Ngô Kha Nguyễn Thụy Kha Phùng Văn Khai Trần Tuấn Khải Nguyễn Minh Khang Cao Vị Khanh Vũ Anh Khanh Cao Đông Khánh Tạ Kim Khánh Nguyễn Minh Khiêm Nguyễn Linh Khiếu Trần Đăng Khoa Trần Khoái Dương Kiền Huyền Kiêu Trần Tuấn Kiệt Đỗ Trung Lai Nguyễn Thị Ngọc Lan Yến Lan Huyền Lam Nguyễn Viết Lãm Mã Giang Lân Mạnh Lê Du Tử Lê Văn Lê Vĩnh Quang Lê Tam Lệ Nguyễn Gia Linh Vi Thuỳ Linh Viên Linh Hữu Loan Thái Thăng Long Vân Long Lê Xuân Lợi Lưu Trọng Lư Trần Lưu Trần Vũ Mai Thế Mạc Nguyễn Đức Mậu Lê Thị Mây Dương Kiều Minh Hồng Minh Nguyễn Hữu Hồng Minh Nguyễn Nhật Minh Trần Quốc Minh Trần Hồng Minh Trần Nhuận Minh Vũ Đình Minh Nguyễn Thanh Mừng Giang Nam Liên Nam Ngô Quang Nam Đặng Ngọc Nga Phạm Ngà Nh. Tay Ngàn Anh Ngọc Lữ Huy Nguyên Ma Trường Nguyên Vĩnh Nguyên Uyên Nguyên Đào Nguyễn Dung Nham Nguyễn Quang Nhật Nguyễn Hữu Nhật Tô Nhuần Trần Nhương Vũ Đình Ninh Nguyễn Anh Nông Đỗ Xuân Oanh Điền Ngọc Phách Chu Ngọc Phan Nguyễn Nhược Pháp Mai Văn Phấn Duy Phi Ngô Văn Phú Nguyễn Khắc Phục Hoài Quang Phương Lê Duy Phương Nguyễn Bình Phương Nguyễn Nhuận Hồng Phương Trúc Phương Trung Phương Thái Viễn Phương Viễn Phương Việt Phương Y Phương Lê Huy Quang (a) Lê Huy Quang (b) Phùng Quán Thường Quán Phan Quế Thanh Quế Bùi Minh Quốc Lê Anh Quốc Lê Minh Quốc Đỗ Quyên Hoàng Quý Nguyễn Hữu Quý Phạm Thái Quỳnh Xuân Quỳnh Nguyên Sa Trần Vàng Sao Trần Hải Sâm Huyền Sâm Phạm Sỹ Sáu Lê Ái Siêm Lê Quang Sinh Băng Sơn Nguyễn Minh Sơn Nguyễn Thái Sơn Trịnh Sơn Lê Vĩnh Tài Ngô Văn Tao Nguyễn Văn Tao Nguyễn Trọng Tạo Vương Tâm Kiệt Tấn Lê Đại Thanh Tô Ngọc Thạch Trần Anh Thái Hoàng Chiến Thắng Mai Nam Thắng Trần Thị Thắng Đặng Thân Thanh Thảo Lê An Thế Nguyễn Đình Thi Quỳnh Thi Xuân Thiêm Ôn Quang Thiên Nguyễn Xuân Thiệp Nguyễn Quang Thiều Trương Thìn Hữu Thỉnh Huy Thông Huệ Thu Dương Thuấn Sương Biên Thùy Đinh Thị Như Thúy Nguyễn Quang Thuyên Phạm Thiên Thư Nguyễn Đăng Thường Trần Mạnh Thường Nguyễn Vũ Tiềm Nguyễn Trọng Tín Nguyễn Quang Tính Từ Nguyên Tĩnh Nguyễn Khánh Toàn Nguyễn Thanh Toàn Thành Tôn Nguyễn Hoàng Tranh Trần Huyền Trân Nguyễn Hương Trâm Nguyễn Trác Hưởng Triều Đông Trình Hoàng Bình Trọng Vương Trọng Nguyễn Xuân Trường Phạm Xuân Trường Phạm Công Trứ Võ Văn Trực Đỗ Minh Tuấn Hoàng Anh Tuấn Hoàng Ngọc Tuấn Lê Nghĩa Quang Tuấn Nguyễn Như Tuấn Thanh Tùng Minh Tuyền Thanh Tâm Tuyền Trần Dạ Từ Lưu Xuân Tự Dương Tường Phạm Nguyên Tường Vũ Xuân Tửu Kiều Văn Nguyễn Trọng Văn Lê Thị Thấm Vân Chế Lan Viên Nguyễn Hữu Viện Đỗ Vinh Nguyễn Thế Vinh Trần Thế Vinh Tất Vinh Ngân Vịnh Lê Văn Vọng Nguyễn Bùi Vợi Anh Vũ Lưu Quang Vũ Phan Vũ Tạ Vũ Vũ Anh Vũ Trần Hoàng Vy Lê Anh Xuân Lý Hoài Xuân Tạ Hữu Yên Ngu Yên Tô Thùy Yên
[Trích bản thảo sách “Một cách tìm hiểu trường ca Việt Nam”] Vancouver – cập nhật 25/11/2010
|