NGUYỄN THẾ TƯỜNG
Sáng nay, ông Tổng biên tập gọi tôi tới bảo đi ngay dự lễ khánh thành một chiếc cầu. Tôi loáng quáng xách máy chạy ra xe, không kịp cả dặn vợ cắt cơm trưa.
Ông Tổng biên tập không đáp, coi như câu trả lời sẽ là thừa. Chưa xong mà làm lễ khánh thành à!
Chiều nay tôi ngồi ở đây, trong hội trường huyện, ngay gần ngã ba sông, giữa hàng trăm quan khách nghe bài diễn văn hơi dài của ông Chủ tịch huyện. Bên ngoài, nắng trải mặt sông, ngời lên loang loáng. Tôi ngồi ngó mông lung ra nơi ngã ba sông. Con sông Kiến Giang từ Trường Sơn, trên đường tìm về biển đến đây, gặp vùng đất rắn, dừng lại quẫy đạp, vùng vẫy, rồi như bất lực, lặng lẽ chia làm hai ngả. Từ bao đời nay hai nhánh sông như hai cánh tay mềm mại chuốt cho dải đất nơi ngã ba này thành nhọn hoắt. Dân gian đặt cho nó cái tên: Mũi Viết. Chính Mũi Viết này là tâm điểm của ba vùng dân ca, đêm đêm trai gái ra đứng nơi ngã ba sông mà hò đối đáp. Cũng vì vậy mà hành trình con đò ngang có khác: nó phải cặp qua ba bến trong mỗi lượt đi. Từ vùng tả qua Mũi Viết, ghé lại tiếp qua vùng Thượng rồi quay về. Bao đời nay vẫn thế.
Từ sau ngày đất nước thống nhất, người ta bắt đầu nghĩ tới chuyện xây cầu qua sông. Chính ngã ba sông trở thành tiêu điểm của bao cuộc tranh luận nảy lửa giữa hai phái: Một số cho rằng phải xây một chiếc cầu hình chữ Y, đuôi cầu cắm vào Mũi Viết, hai mũi gắn với hai vùng Thượng và tả Kiến Giang. Những người còn lại bảo vệ ý kiến xây lần lượt hai chiếc cầu ngay gần ngã ba nối sang Mũi Viết. Sức đến đâu làm đến đó. Mãi, rồi cuộc tranh luận cũng phải chấm dứt…
“… Chúng tôi đánh giá cao những cố gắng của đội cầu thi công, đã không quản… đã khắc phục… đã…”
Đánh giá cao! Tất nhiên rồi. Không có cái cầu thì hai bờ sông cứ như hai thế giới riêng. Một bước là xuống đò. Có việc qua huyện: xuống đò, xong việc trở về, lại đò… Những bà thúng mủng đi chợ, những cô cậu học sinh trung học xắn quần đến bẹn vác xe đạp chen nhau xuống đò. Có người con gái lấy chồng bên kia sông, nấu được bát canh cá bảo con xách về cho ông ngoại, đò chòng chành, đổ sạch xuống sông. Phiền quá! Ai chẳng muốn được đi qua sông trên mặt cầu: cứng cáp bằng phẳng hơn cả đường làng.
Lúc này, ở hai đầu chiếc cầu mới xây xong, người dân hai vùng đã đứng chật ních, chen chúc nhau trước hai dải băng đỏ chắn ngang. Hai thiếu nữ mặc áo dài bưng sẵn hai cái khay phủ vải trắng, đựng kéo cắt băng chắc là sắc lắm. Một dãy ô tô lớn nhỏ xếp hàng chờ sẵn. Trong khi đó bài diễn văn của ông Chủ tịch huyện vẫn chưa hết:
…“Cách đây năm năm, chúng ta đã xây dựng thành công cầu Xuân Phong nối vùng tả với huyện lỵ… đánh dấu…”
Lại những tiếng vỗ tay râm ran. Anh bạn quay phim ở đài truyền hình Huế giơ máy quay xè xè thu cái hình ảnh vỗ tay của quan khách; rồi đặt máy xuống bàn, tựa cửa nhìn ra cầu. Bây giờ thì cả dưới mặt sông cũng đã đông. Những bè nứa, bè gỗ không biết xuôi xuống từ bao giờ, tấp lại. Những chiếc đò dọc ghé vô đang loay hoay tìm chỗ đậu. Trên một vài chiếc thuyền chài, những ngư dân lưng đen cháy, đứng khuỳnh khuỳnh rất vững trên đôi chân vòng kiềng, xung quanh là cả tiểu đội con cái với mụ vợ tóc rối bù, những đứa trẻ trần truồng thò lò mũi xanh, đều ngước lên mặt cầu, nơi có hai dải băng đỏ đang rung rung lấp loáng trong nắng.
***
Khi buổi liên hoan khánh thành cầu kết thúc thì trời đã về chiều, nắng nhạt dần. Những khách đến dự, những người hiếu kỳ đến xem cầu đã kéo nhau về hết. Tôi tha thẩn ra đầu cầu đứng ngắm ngã ba sông. Thực ra, cái không khí ngày hội ở vùng thị trấn đồng quê này vẫn chưa hết. Người ta ào ào kéo qua cầu. Xe đạp đi hàng ba, thanh niên bá vai nhau đi nghênh ngang. Hai ông già râu dài đến ngực lâu nay không biết ẩn dật ở đâu tự dưng xuất hiện với cái quạt mo muôn thuở. Vài cô gái quê, gánh củi dương về, dừng lại trở vai ngay giữa cầu. Để ý, thấy có người lên cầu không vì việc gì cả. Họ đi rất chậm, hai tay sờ sờ lên lan can. Qua hết cầu, người ấy lộn lại, đứng vẩn vơ một lát rồi về nhà. Một anh thợ cày lấm láp vác cả bộ cày bừa trên vai, dắt trâu về qua. Con trâu đứng sững lại, vẻ thủ thế, giương đôi mắt lồi với cái mũi ướt lên. Mất một lúc, anh thợ cày giật mình quất một roi thật đau lên mông con vật. Thế là cả chủ lẫn tớ men sông khệnh khạng về nhà. Một bàn tay đặt nhẹ lên vai, tôi quay lại: Bùi Dũng - ông bạn quay phim. Dũng nói:
- Xuống đi đò ngang chơi ông!
- Đò ngang? Đi đâu?
- Qua chợ Tréo!
- Ông nói gì lạ thế không thấy cái gì lù lù kia à! Tôi chỉ ra mặt cầu.
- Có, tôi thấy, nhưng ông lại không thấy gì kia nữa.
Tôi nhìn theo tay Dũng. Cách cầu chừng năm mươi mét, nhánh sông nghẽn lại, eo thắt như cái cổ cò. Hai bờ, ngay sát mép nước có những cây cừa cường tráng, lá xanh um tùm. Từ thân cây, từng chùm rễ phụ dài, rậm quét xuống mặt nước. Trong ánh nắng chiều đang thấp dần phía sau làng, dưới khoảng tối mờ ảo của bóng cừa, một chiếc đò lặng lẽ bám bờ vào bến. Trên lái, một người đứng, hai tay cầm chèo như chỉ chờ có người xuống đò là quay lái. Dũng nói sau lưng tôi:
- Chỗ đó lúc nãy là bến đò ngang.
Tôi cãi:
- Nhưng chiếc đò này chắc gì là đò ngang.
- Đò ngang đấy, người phụ nữ đứng kia là lái đò kỳ cựu ở vùng này. Tớ biết mà!
- Nhưng còn ai thèm đi đò nữa mà chị ta chờ, không lẽ chị ta chờ ông?
- Có thể lắm - nói rồi Dũng cương quyết kéo tay tôi - Xuống đi, xuống với tôi, đừng cãi, rồi sẽ biết.
[if gte mso 9]>Normal0falsefalsefalseMicrosoftInternetExplorer4Minh họa: Bửu Chỉ
Hai chúng tôi đi về phía bến. Đúng là đò ngang thật. Trên lòng thuyền còn kê ván lót. Mạn thuyền có đóng nhiều đoạn dày để cho khách ngồi. Đằng lái có chiếc chiếu cho lái thuyền ngả lưng và cái túi đựng tiền chắc là toàn những đồng hào lẻ. Dũng chào chị lái đò, một tay túm búi rễ cừa, kéo tôi ngồi xuống mạn và chị lái đò lạnh lùng quay lái. Thế là, chuyến đò ngang muộn màng, ế ẩm chở hai ông khách kỳ quặc là Dũng và tôi, tiến ra giữa dòng sông. Một tia nắng còn sót lại chiếu chênh chếch vào mạn thuyền. Cả tôi và Dũng không đứa nào nghĩ tới việc cầm chèo đằng mũi chèo giúp như khách thường làm mỗi khi đò đầy, sóng cả. Chiếc đò lừng khừng tiến ra giữa sông. Tôi chợt nhận thấy nó loay hoay như không muốn vào bến. Bất giác tôi nhìn chị lái đò. Suốt đời tôi không bao giờ quên chân dung người phụ nữ đó. Chị là hiện thân của một vẻ đẹp thuần khiết đồng quê. Đôi môi đầy chất phác, gò má đầy đặn phúc hậu. Đôi mày kéo lên rồi hạ xuống phía đuôi mắt thành một chữ V ngược, sâu lắng. Chiếc áo láng đen bó sát thân hình đầy đặn, chắc lẳn như một khúc bánh tét, nổi lên bộ ngực khỏe mạnh. Tay áo xắn cao để lộ đôi cánh tay rắn rỏi của người quen chèo thuyền. Chị đứng cao trên lái thuyền, thân hình tạc vào bầu trời hoàng hôn những đường cong mạnh mẽ, cân đối. Đôi mắt chị không hướng vào bờ mà ngước nhìn đi đâu đâu lên phía cầu đang mỗi lúc càng đông người. Mái chèo cứ hờ hững, loạng choạng gạt nước. Chiếc đò đi nghiêng nghiêng như một gã đàn ông say rượu. Cuối cùng rồi thuyền cũng cập bến, suýt nữa va phải cái am nhỏ đứng dầm chân dưới nước, trong am nghi ngút khói hương. Tôi móc bóp lấy ra năm hào bước qua lòng thuyền đưa cho chị. Người lái đò tay vẫn cầm chèo lặng lẽ lắc đầu, trong đôi mắt chị có một điều gì đó không thể nào diễn tả nổi. Dũng kéo tay tôi lảo đảo bước lên bờ nhanh miệng chào:
- Thôi, cảm ơn chị nghe!
Người phụ nữ vẫn đứng rất vững trên lái thuyền. Tôi nghe một tiếng “dạ” nho nhỏ vọng tới.
Lên tới đường, ngoái lại tôi vẫn thấy chiếc đò nằm đó và người phụ nữ đường nét như tranh vẽ, lặng lẽ đứng cầm chèo.
Trai gái vẫn từng tốp, từng đôi đạp xe qua cầu, không một ai để ý đến người và đò cô đơn dưới dòng sông.
Dũng nháy mắt:
- Lạ lắm hả?
- Ừ, lạ thật! Tôi thú nhận.
Dũng trầm ngâm ra chiều suy tư:
- Hiện tượng này, các nhà tâm lý học gọi là “quán tính tâm lý”.
- Quán tính tâm lý?
Dũng rườm rà:
- Trước hết, tôi kể cho ông nghe một câu chuyện cổ tích lưu truyền ở vùng này. Ông là dân thành phố nên không hiểu lắm tâm lý của người vùng sông nước. Lúc nãy qua sông, ông có chú ý đến những cây cừa ở bến đò không? Cái cây có bộ rễ phụ xõa xuống nước như tóc đàn bà ấy, với cái am thờ ở bến sông nữa, cả một thiên truyện cổ tích đấy, nó như thế này:
… Ngày xưa, ở ngã ba sông này có mụ Trẹo không chồng, không con, sống cô độc với con đò ngang. Ngày ấy, người trên cạn còn thưa thớt, bờ sông cây cối um tùm mà dưới nước ma-rà nhiều lắm. Ngày ngày mụ Trẹo chèo đò đưa người qua sông đi chợ, đi bẻ bắp, cúng giỗ, đám đình. Qua đò, ai trả cái gì mụ cũng lấy. Cuộc đời mụ tưởng chừng như sẽ gắn bó với con đò cho đến khi chết. Nào ngờ, một đêm, trời đột ngột nổi cơn dông, mưa lớn ở thượng nguồn. Con nước đổ về cuốn phăng chiếc đò của mụ ra biển. Sáng ra mất thuyền, mụ lăn lộn kêu khóc, xắn quần, vén áo đi tìm suốt ba tháng mười ngày, không thấy. Về nhà mụ xõa tóc thắp hương vừa đi ăn mày vừa lễ bái ở bến đò suốt ba tháng mười ngày nữa. Rồi một đêm không trăng sao mụ nhảy xuống sống với ma-rà. Lại ba tháng mười ngày nữa ma-rà đẩy xác mụ lên bờ biến thành cây cừa ngày ngày đứng xõa tóc xuống nước…
- Thôi, thôi, đừng kể nữa, nghe dễ sợ quá.
- Chuyện cũng đến đó thôi. Sau này người ta lập miếu thờ mụ, thiêng lắm ai đi đêm hôm khuya khoắt muốn quá giang cứ khấn mụ là có đò ngay à. Sau này nữa, ai muốn sắm đò ngang phải cúng mụ, xây am thờ và trồng cừa ở bến đò, như cái bến tụi mình qua đó. Tớ kể chuyện này để chứng minh cho cậu rõ ràng: Người dân vùng chiêm trũng này gắn bó với con thuyền lắm. Đẻ ra đã nhìn thấy con thuyền. Đi nhổ mạ, thuyền, đi cấy, đi gặt, đám đình, giỗ, chạp, hội hè bằng thuyền hết. Khi chết cũng được đưa xuống thuyền ngược lên chôn trên núi.
Tôi nhận xét:
- Mình thấy thương thương cái chị lúc nãy thế nào ấy, cậu ạ!
- Cậu bảo không thương mà tớ rủ cậu đi đò ngang cả khi cái cầu đã nằm chình ình ra đó à. Bà ấy không nhớ, chứ tớ không thể quên bà ấy được. Hồi còn ở nhà đi học trường huyện ngày nào chả qua đò. Có khi vội quá làm đò chòng chành bà ấy nạt phải biết. Nhưng thường ngày bà ta cũng dễ thương lắm. Có hôm đi học về muộn, đói vàng mắt, bà ấy còn dúi cho trái bắp, củ khoai mập ú, ngon lành. Chiều nay, khi cắt băng khánh thành thông cầu tớ đã nhìn thấy bà ta đậu thuyền dưới chân cầu. Rồi khi chúng mình “nâng cốc” trong hội trường huyện, nhìn ra vẫn thấy bà cầm chèo ngồi trên lái thuyền. Tớ mới biết bà không dễ gì rời con thuyền được. Nên tớ mới rủ cậu xuống đi chuyến đò cuối cùng này.
***
Lên bờ, Dũng coi như đã hoàn thành nhiệm vụ. Anh ta vui vẻ huýt sáo rảo bước sang bên kia cầu, nơi tối nay sẽ có buổi xi-nê chiêu đãi nhân lễ khánh thành cầu. Tôi đứng thơ thẩn một lát rồi đến ngồi trên bãi cỏ trên bờ sông. Gần đó cũng có những cây cừa già đứng xõa tóc xuống nước. Trời đang tối dần. Mặt sông sẫm lại, xanh đen như màu mực. Trên cầu, đèn điện bật sáng chiếu loang loáng xuống mặt sông. Tiếng loa phóng thanh bên kia cầu vang lên. Dòng người ùn lên cầu càng đông. Có tốp bươn ngay qua bãi chiếu. Nhiều người dừng lại, tựa lan can nhìn xuống mặt nước, hít thở mùi vôi vữa chưa kịp khô, hứng làn gió lang thang thổi dọc triền sông, tận hưởng cái cảm giác khoái trá được đứng ngay trên dòng sông vừa bị chinh phục. Tôi ngồi nhìn dòng người vui lây cái niềm vui chính đáng của người dân đồng quê, và tự thấy hổ thẹn cho mình. Ở Huế, mỗi ngày bốn lần đạp xe đi về qua hai chiếc cầu bắc qua sông Hương, chưa bao giờ tôi có được chút tự hào sung sướng như thế. Phải chăng vì tôi chưa bao giờ có dịp vác xe đạp chen xuống đò ướt đến bẹn, trong tiếng la mắng, nguyền rủa của mấy bà đi chợ lắm lời. Phải chăng vì tôi chưa bao giờ phải đứng ở bến sông trong đêm khuya, giữa mưa gió tầm tã rét mướt gân cổ lên mà gào một cách tuyệt vọng: Ơ đò… rồi lại lầm rầm khấn mụ Trẹo cho đò quá giang để mau về nhà, thay quần áo ướt sũng, hơ đôi tay cóng lên bếp lửa ấm. Cạnh hai chiếc cầu ở thành phố tôi tuyệt nhiên không có dấu vết gì của bến đò xưa, và tôi cũng vô tình không bao giờ tự hỏi: Một trăm năm trước, ai đã chèo đò ngang qua sông Hương?
Bỗng, từ bờ sông vẳng đến chỗ tôi ngồi cái âm thanh gì giống như tiếng khóc, tiếng nức nở. Tôi lắng tai nghe. Đúng là có ai đang khóc trong đám cây dừa lúc này đã tối đen như mực. Tiếng nức nở cố nén lại nên bật ra những tiếng rất đanh. Tôi rùng mình suýt bỏ chạy. Mụ Trẹo, mụ tổ của nghề chèo đò ngang ở ngã ba sông này từ trong câu chuyện cổ tích buồn thảm kia phút chốc hiện lên trước mặt tôi, với làn da nhăn nheo, tóc xõa đỏ quạch như rễ cừa, cầm cái bơi chèo nhìn tôi đăm đăm. Tôi bước hai bước về phía có ánh sáng điện nhưng rồi lại rón rén vòng ra sau khóm cừa quan sát. Không phải nhìn lâu, trước mắt tôi, một con thuyền neo dưới bóng cừa loang lổ ánh điện, chòng chành nhè nhẹ. Đúng là con thuyền lúc chiều. Tôi kinh hoàng nhận ra người phụ nữ lái đò. Chị đứng đó, cô đơn, tối tăm, tóc xõa rối bù, mắt ngước lên phía cầu, nhòa lệ. Trên cầu dòng người vẫn hối hả kéo qua. Không một ai ngờ rằng có người lái đò nhìn cầu, nhớ thuyền đứng khóc, phải! Giờ này, buổi xi-nê này, lẽ ra cả dòng người kia phải bước xuống đò của chị la hét - đùa - giỡn - chen chúc huyên náo. Không dừng được, tôi đi tìm Dũng và kể cho cậu ta nghe chuyện vừa xảy ra.
***
Đêm đã khuya. Trong phòng khách ủy ban huyện, hai chúng tôi không ngủ. Dũng vừa trăn trở vừa kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc đời người lái đò ngang:
- Ông nội tớ kể rằng: Cách đây khoảng nửa thế kỷ. Cách đây nghĩa là cách cái thời thơ ấu thò lò mũi xanh của tớ ấy - Dũng giải thích - Có một ông quan nhỏ trong triều đình Huế theo Văn Thân đánh Pháp, không thành, dạt về vùng này mở lớp dạy học. Sau rồi cũng bị Pháp cấm vì tuyên truyền chánh trị gì đó. Nản quá, ông ta mua một con thuyền, tới ngã ba sông này làm nghề chèo đò ngang. Ngày ngày ông chèo đò - vắng khách thì lên cái lều ven sông ngâm vịnh. Sau, ông lấy một cô gái mồ côi làm vợ, đẻ được đứa con trai. Một đêm vợ ông chèo đò ngã xuống sông chết. Về sau ông buồn mà chết theo. Người con trai lớn lên tiếp tục cầm chèo. Lại một thời gian sau nữa, anh lấy vợ đẻ được đứa con gái. Khi tớ lớn lên thì đã thấy hai cha con chèo đò ngang rồi. Suốt ngày hai cha con cứ lui cui với con đò. Chị ta phải kê một viên gạch to mới với tới cái chèo đằng mũi. Động tác chèo thuyền vùng sông nước này đã cho chị được cái vóc người lý tưởng vậy đó. Khỏe mạnh mà duyên dáng lạ lùng. Lên cấp hai tớ đi học sơ tán mất hai năm, quay về thì trên chiếc đò ngang chỉ còn mình chị. Ông bố bị máy bay Mỹ bắn chết. Từ đó chị làm cái mui che, ở luôn dưới thuyền. Nhiều đêm đông rét mướt, nằm trong chăn ấm, nghe tiếng gió rít qua khe cửa, tớ hay tự hỏi: Không biết chị ấy xoay xở trên thuyền ra sao!
- Tội quá, sao chị ta vẫn chịu đựng được nhỉ?
- Ấy có lúc còn tội hơn ấy chứ. Cái hồi làm xong cầu Xuân Phong bắc qua vùng tả, chị ấy buồn lắm. Vì đò chỉ còn hai bến. Chị khóc mấy hôm rồi đưa đò chuyển cả cái am nhỏ xuống cái bến lúc chiều tụi mình đi ấy.
Tôi nằm nghiêng nhìn sang giường Dũng, thấy ánh mắt anh chàng long lanh. Đêm đã khuya lắm. Thị trấn ngủ yên trong cảnh thanh bình. Trăng hạ tuần cô đơn gác trên ngọn tre, tâm trí tôi vẫn băn khoăn nghĩ về chị lái đò đã chở chúng tôi qua sông chuyến chiều nay.
Tôi hỏi Dũng:
- Không còn khách đi đò nữa chị ta làm sao mà sống được nhỉ?
Đến lượt Dũng nghiêng sang phía tôi nheo nheo mắt.
- Chị ấy chưa biết nhưng mình đã nghe nói xã đã xếp việc cho chị ấy làm trong hợp tác xã chiếu cói xuất khẩu rồi. Còn con đò, xã định đổi cho chị ấy một căn nhà, mai tớ sẽ chỉ cho cậu thấy, khang trang lắm.
- Vậy mà hồi tối chị ta xõa tóc ôm chèo đứng khóc ở bến sông. Thật tội.
Dũng bật cười thành tiếng:
- Đời thế đấy cậu ạ! Cứ để cho chị ấy nhớ thương một thời sông nước đã thấm sâu vào từng thớ thịt. Dứt bỏ đi cái cũ thật chẳng dễ dàng gì đâu. Cậu đã nghe chuyện những cô gái ở vạn đò Gia Hội chưa? Đi lấy chồng đã năm sáu mặt con rồi mà thỉnh thoảng vẫn về lại đò của mẹ để ngủ một đêm trên sóng nước chòng chành cho đỡ nhớ!
Nói đến đây anh im hẳn. Tôi tưởng anh đã ngủ. Bỗng anh lại cất tiếng như vẫn biết tôi chờ đợi:
- Cái cầu đem lại niềm vui cho tất cả mọi người. Nhưng nếu một người còn chưa vui thì điều ấy có đáng quan tâm không?
Tôi không trả lời và anh cũng không giải đáp.
Gà đã gáy sang canh. Tôi cố gắng ngủ. Vậy mà sao giấc ngủ cứ chập chờn, không sâu.