Tạp chí Sông Hương - Số 296 (T.10-13)
Bao Vinh - nẻo phố mờ xa
10:27 | 04/11/2013

NHỤY NGUYÊN
                 Bút ký

Bao Vinh hôm nay nếu soi vào lịch sử thật chẳng xứng với danh hiệu là khu thương mại lớn của đất kinh kỳ vào thế kỷ XIX.

Bao Vinh - nẻo phố mờ xa
Bao Vinh, nhìn từ sông Hương - Ảnh: Vov,vn

Khi cảng Thanh Hà bị sông Hương bồi lấp dần, người Minh Hương di chuyển lên Bao Vinh sinh sống, phố Thanh Hà trở lại với dáng vẻ của vùng quê nghèo thì làng Bao Vinh lại khoác lên mình tấm áo thị thành sáng láng. Đến nay đã hàng trăm năm... Tôi từng ngồi trên những chuyến đò ngang qua bên kia làng Tiên Nộn, rồi chẳng chịu lên bờ mà tiếp tục trở ngược qua bên này, để ngắm phố cổ Bao Vinh từ mặt sông, ngắm những bờ kè có từ thời Pháp mà đến nay nước có dữ dằn vẫn chưa xâm thực nổi. Phố thị nền nã xuân xanh như một dải lụa rồi cũng thời gian bụi bám, cũng tô son điểm phấn và một ngày những người con gái bỗng giật mình khi soi mình trên dòng sông cũng không còn trong như gương nữa.

Phố cổ bắt đầu từ cầu Bao Vinh, đến cống Địa Linh xem như hết. Qua cầu Bao Vinh gặp ngay ngôi đình - “cột mốc” quan trọng đầu tiên trong thiết chế văn hóa làng. Miếu ngài khai canh nằm cạnh bên đình làng, rất thuận lợi và đông vui trong những ngày lễ tế. Thường thì Thành hoàng được thờ trong đình; ở đây ngài lại có miếu riêng ở bên phải của chùa Thiên Giang. Dịp Tứ Tuần Đại Khánh của vua Khải Định năm thứ 9 (1924), đã ban sắc phong “Thành Hoàng Tôn Thần, bảo vệ cho nước che chở cho dân”, “chuẩn cho phụng thờ như cũ, dùng để ghi ơn phước nước nhà và tỏ bày điển lễ thờ tự”; đặc biệt còn “tặng thêm là Tĩnh Hậu Trung Đẳng Thần”. Hiện sắc phong này lưu giữ ở chùa làng.

Thiên Giang tự được xem là điểm cuối của phố cổ. Ngôi chùa cổ quý hiếm. (Cũng nhiều công trình nghiên cứu tường tận các di tích ở Bao Vinh - Địa Linh - Thanh Hà; có Chùa Ông, Chùa Bà nhưng chùa Thiên Giang lại không thấy nhắc đến). Lịch sử nhiều biến động, nhất là giai đoạn tiêu thổ kháng chiến năm 1946, chùa cũng nhiều tổn hại, tiếc nhất là sắc phong đã mất hoặc thất lạc nên cội nguồn chưa thấu tỏ. Bức hoành phi Thiên Giang Tự ở chánh điện, dòng lạc khoản ghi “Minh Mạng thập cửu niên Mậu Tuất” (1838), trong lúc bức thờ Quan Công bên phải ghi “Tự Đức năm Kỷ Dậu” (1849); phần nào chứng tỏ chùa được lập trước đền và đây không là sản phẩm thờ “vĩ nhân” người Hoa mang từ bản quán thời gian họ tới Bao Vinh sinh sống. Trong số câu đối được ghi trên các trụ biểu, có một cặp rất thâm thúy: “Nam hải liên hoa cửu phẩm hương/ Tây phương lục trúc thiên niên thúy”. Tây phương là cõi Cực Lạc lại gắn với lục trúc (loài cây ở cõi trần). Còn Nam hải (ngụ ý chỉ Ta bà hay như kinh Phật gọi địa cầu là Nam diêm phù đề) lại gắn với liên hoa (vốn được xem là “quốc hoa” ở cõi Tịnh). Dĩ nhiên câu đối này có thể hiểu theo hướng khác, song thiết nghĩ tác giả muốn gửi gắm cái triết lý: cõi Phật và Trần ai đều “Phàm thánh đồng cư”; khác là ở tâm người tịnh hay nhiễm. Tâm tịnh thời cõi Phật tịnh.
 

 


Cạnh chùa là cống Địa Linh. Qua vùng đất Địa Linh là đến làng Minh Thanh; vốn bắt nguồn từ hai làng Minh Hương và làng Thanh Hà (người đời Minh và đời Thanh đến xin an cư lạc nghiệp). Người Hoa xin nhập cư, được chúa Nguyễn cho lập làng Minh Hương vào khoảng thế kỷ XVII đã khởi nguồn cho phố thị. Thương cảng Thanh Hà trở thành nơi giao thương buôn bán của cả xứ Đàng Trong, tấp nập người buôn kẻ bán; làng Địa Linh gần đó và phố cổ Bao Vinh nhờ vậy trở thành một trong những nơi trung chuyển hàng hóa lớn của Kinh đô Huế.

Nhờ sự phồn thịnh ở Thanh Hà, hai làng Địa Linh, Bao Vinh đã từ làng dần lên phố. Nên bây giờ ghé thăm phố cổ mà không xuống làng Minh Hương quả thiếu sót. Dẫu rằng vùng này giờ chẳng còn dấu vết của phố xưa nữa ngoài một số di tích văn hóa lịch sử.

Người Hoa đã rất khôn khéo lập hai ngôi chùa đầu và cuối làng để phân định ranh giới của mình, thật quá… sâu xa. Đến nay, mấy trăm năm vật đổi sao dời, dấu vết người Hoa còn lại thực tế cũng chỉ còn chùa Ông (đầu làng) (nay lại thuộc địa giới của làng Địa Linh), và chùa Bà (cuối làng). Chùa, song không có Phật. Đây chỉ là cách gọi của người Hoa, như họ gọi chùa Cầu ở Hội An vậy. Chùa Ông thờ tướng Quan Công. Việc thờ Quan Công ở trong một số ngôi chùa Việt (như chùa Thiên Giang) cho thấy sự ảnh hưởng này. Trong chùa Thiên Giang, ngài Quan Công được thờ bên phải, phía sau bàn thờ Bồ tát Quán Thế Âm. Về sau một số chùa/đền thay vì thờ Quan Công, người Việt thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo hay một số vị tướng anh hùng khác.

Chùa Bà thờ một bà hoàng người Phúc Kiến, là trung tâm tín ngưỡng của người Minh Hương. Trên cổng lớn đề Thiên hậu cung; mái có hình những chú cá chép lớn, điều không thấy ở các kiến trúc chùa (thường là long, lân, quy, phụng); người Tàu gọi chùa, dân gian cứ thế gọi thành quen. So với chùa Bà, khuôn viên chùa Ông rộng hơn, thoáng đãng mà cây cối cũng nhiều. Từ ngoài vào, ngay phía phải có bia chữ Hán ghi nguyên do và địa thế lập ngày 10 tháng 5 năm Tự Đức thứ 14 (1861). Liên ba trước điện đề Quan Thánh đế quân. Phía sau chùa Ông, đầu thời chống Pháp có dựng một lô cốt; về sau dân làng xây ngay trên lô cốt ấy một ngôi chùa nhỏ, giữa thờ Phật A Di Đà, bên phải thờ Bồ tát Quán Thế Âm, bên trái thờ Địa Tạng Vương Bồ tát. Một ngôi chùa xây trên lô cốt, quả là điều thật sự mang nhiều ý nghĩa. Cũng giống như ở chùa Thiên Giang, ở Linh quang tự này phía phải có chuông, lớn hơn, trên thân ghi năm lập Gia Long năm thứ 3, Giáp Tý (1804). Theo một vị tu hành ở ngay cạnh, chùa xây khoảng năm 1963, như vậy chuông này có lẽ cúng cho chùa Ông. Điều lo ngại, do chùa xây một nửa phía sau của lô cốt, bị lún, tương lai nguy cơ không an toàn nếu ngày vía người dân đông đúc lên hành lễ.

Trở lại làng Bao Vinh, Thiên Giang tự là dấu son trên hình hài phố cổ. Bây giờ về Bao Vinh, điểm đầu tiên là tôi ghé chùa; cuốc bộ dọc phố cổ, lội vào chợ rồi trở ra trước bến đò ngang cũ nay chỉ còn trong trong ký ức của mấy người già luôn ngồi sâu trong những ngôi nhà rường cổ kính. Những ngôi nhà ngủ sớm. Hơn chín giờ phố đã vắng; còn chăng là mấy người đàn ông sau khóa niệm Phật ở lại pha trà nhâm nhi nói chuyện đạo Pháp. Ngày chưa có cầu, người dân làng Hải Dương cách mười lăm cây số, khổ hơn là lụi hụi qua đò Ca Cút, mưa gió cũng đến bằng được ngôi chùa đặc biệt ở Bao Vinh này niệm Phật đều đặn tháng ba mươi ngày. Trước cổng chùa Thiên Giang có câu đối ngỡ không dính líu đến Bao Vinh, thực tế khá quan trọng: Thiên bảo vật hoa tây diện điền viên đông diện phố/ Giang phong minh nguyệt nam thuyền kỳ cổ bắc thuyền ca. Từ góc nhìn này có thể hình dung ra địa thế của làng (phía tây ruộng vườn, phía đông phố phường) và sinh khí từ khung cảnh trăng thanh gió mát yên bình ở một nơi có “dòng sông trời” vắt qua...

Phố cổ Bao Vinh theo thống kê của các nhà nghiên cứu, năm 1991 có 39 ngôi nhà rường; nay còn chưa tới vài chục ngôi dọc theo mặt tiền, đa phần được “mông má”. Điểm nhấn là ngôi “hai tầng”, thấp thoáng bóng dáng kiểu nhà ở phố cổ Hội An; là ngôi nhà rường rất quý ở Bao Vinh hiện nay. Ngôi nhà trước giải phóng mang số 112, nay là 77 Bao Vinh. Đời cố để lại đời “ông”, đời thứ ba hiện là một mệ ngoài 70. Nhà nguyên gốc 5 gian, nay chia ra 2 hộ gia đình ở. Cột cao 18 mét, gỗ cực tốt, có hơi người nên bóng láng, đinh đóng không vào nên mối mọt cũng chịu. Ngồi trong ngôi nhà nhìn ra vẻ như dòng đời vẫn bình lặng, cảm giác dọc con phố vẫn lụp xụp quán hàng quê kiểng.

Tôi đã về Kim Long, xuống Vỹ Dạ, Phường Đúc ghé thăm những ngôi nhà tương tự. Số phận một số nhà rường ở Huế, phía gia chủ ngại nhận trùng tu với những ràng buộc làm ảnh hưởng đến sinh hoạt nề nếp gia phong. Mấy năm trước có phái đoàn của Nhật đến đo đạc, nghiên cứu chi tiết ngôi nhà hai tầng ở Bao Vinh, sau họ gửi lại gia đình một bản vẽ hết sức tỉ mỉ “làm kỷ niệm”. Lừng lững giữa bao nhiêu ngôi nhà được xây theo lối tự do, là một ngôi nhà mang kiến trúc của Pháp. Chủ, một mệ già trên chín mươi còn minh mẫn. Mệ bảo bên Pháp chi tiền trùng tu nhưng con cái lắc đầu bảo “từ từ”. Số nhà cổ còn lại ở Bao Vinh phần lớn trên vẫn mái ngói liệt, vẫn sườn gỗ mà chỗ này chỗ kia đã được làm mới. Nếu một ai chưa từng nghe đến phố cổ Bao Vinh, lúc tới đây hẳn sẽ hụt hẫng cái ấn tượng về thời của dãy nhà rường nối nhau u hoài man mác. Gặp một người già. Mệ nói theo kiểu dân gian đặc sệt: “Còn mô nhà “cổ” nữa. Chừ là nhà “họng” hết rồi”. Tôi tưởng nghe nhầm nên hỏi lại. Mệ cười. “Đó, nhà mô cũng dài như “cổ” vịt tề”, tôi mới ngớ ra. Đi xuyên vào những đường kiệt, thật khó tìm ra một ngôi nhà rường nguyên vẹn; vài cái cổng cổ đối lập với ngôi nhà ba tầng chói lóa, vài đoạn tường dày nhuốm dấu vết thời gian, những miếng sành sứ xa xưa.

Nét đẹp thơ mộng từng tô điểm cho phố cổ Bao Vinh là phía bên mép sông với dãy nhà “bánh ú” đã biến dạng qua những lần cải tạo. Thuật ngữ kiến trúc gọi loại này là nhà tứ giác, chúng được người Pháp đề xuất xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XX, là các ki ốt dùng chứa hàng hóa tập kết từ các cảng quanh đó. Về sau nó mất dần chức năng; cũng có nhà dành phục vụ nước nôi khách khứa ngắm phố cổ hoặc ngồi hướng mặt về phía dòng sông hưởng gió đồng nội từ phía làng bên kia. Chiến tranh, những ngôi nhà bánh ú thay đổi chức năng, người ta vào ở và nó cũng phải chiều theo nhu cầu cuộc sống. Ngày nay mỗi lần xuống Bao Vinh, ngó lên cao vẫn còn đó những cái “bánh ú” dễ thương dọc theo phố cổ mờ nhòa.

Chánh sử ghi ngài thủy tổ của làng Bao Vinh là Nguyễn Văn Nhiệt quê ở Thanh Hóa. Còn theo một số bậc cao niên, khai canh làng Bao Vinh (thượng) là một người họ Phạm. Sau này ông còn về La Sơn (Phú Lộc) lập làng; nơi đây tôn ông là người khai canh của làng Bao Vinh hạ. Có dạo ông được điều vào Quảng Nam chống giặc, bị thương nặng; con ngựa chở ông về đến làng. Hiện ông và ngựa đều được thờ tự trang nghiêm. Việc húy kỵ ngài ở Bao Vinh thượng nhằm ngày mồng 7 tháng chạp (ngày ông còn sống); còn ở Bao Vinh hạ kị ngày mất (11 tháng giêng). Bên thượng mời thì bên hạ cử người lên, mang theo một mâm cau trầu rượu và ngược lại…

Bao Vinh là ngôi làng rất chú trọng việc công, dành riêng phần ruộng lo việc công như sau: 5 sào ruộng đình, 5 sào Tam bảo, 1 mẫu cầu bông (lễ cầu được mùa), 1 mẫu ruộng giấy (giấy tờ dùng vào việc văn thư phục vụ các lễ), 2 sào ruộng đầu xâu (trả công ông mõ); phần ruộng dành lo kị ngài khai canh, v.v. Làng Bao Vinh thượng xưa mỗi năm đều tổ chức đều đặn các lễ: Lễ Xuân thủ (cúng đầu năm) vào ngày 16 tháng giêng âm lịch, Lễ Thu tế vào ngày 16 tháng 7. Những lễ này ứng với một câu trong Luận ngữ: “Xuân thường thu tế”; từ đây đời sau mới có câu đối: “Đông tiển nam kim tân chế độ/ Xuân thường thu tế cổ uy nghi”. Lễ Vía Thập điện hay còn gọi Thập Điện Minh Vương, một tín ngưỡng dân gian nhưng được cúng tại chùa. Điều đặc biệt nhất là lễ này không do các ông mà “dành” cho các bà đứng chủ. Cùng với lễ cúng cô hồn tại miếu Âm linh, Lễ kỵ ngài khai canh là hai lễ chính trong năm.

Người dân gốc ở Bao Vinh thượng chỉ khoảng chưa tới 40%, còn lại dân tứ xứ. Ban đầu chỉ tam tộc là Phạm, Ngô, Lê. Sau thêm thập nhị tôn phái, và họ Nguyễn được làm đại diện cho hai cụm họ tộc trong mỗi lần “ra mắt” tiên tổ tại đình làng hay trong các dịp lễ trọng. Người dân gốc của làng cúng xong Lễ xuân thủ, 3 xóm của làng mới lần lượt cúng. Nét khác biệt đáng lưu ý: người đứng đầu xóm lệ thường là người trú quán (chứ không phải nguyên quán); cho thấy sự tiến bộ trong thiết chế xóm thôn xưa, vừa nêu cao sự đoàn kết giữa người quen kẻ lạ.

Bên kia bến đò ngang Bao Vinh là làng Tiên Nộn. Người làng sống chủ yếu nhờ vào trồng rau. Hồi xưa cứ sang ngày là bến đò bắt đầu nhộn nhịp. Khoảng một giờ sáng đã xao động tiếng chèo khua, tiếng trao đổi rì rầm. Các mặt hàng từ làng Tiên Nộn lần lượt qua sông, nhiều nhất là rau củ quả, bắp. Bên này nào xe thồ, xích lô, nào xe cải tiến đợi sẵn đón những chuyến hàng đầu tiên phóng ra chợ giữa cái se lạnh của sương đêm. Có thể nói đây là bến đò thức sớm nhất thành phố. Cầu chợ Dinh từ lúc được bắc đã vắng đi cái khung cảnh tấp nập thuở nào và những chuyến đò cũng thưa bớt, song bến vẫn như một người mẹ lo toan khuya sớm. Chiều xuống ở bến đò ngang, thi thoảng có mệ già trên vai một gánh chè, vắng khách lại nhọc nhằn quang gánh dọc chợ mời chào.

Bến đò Bao Vinh xưa kia trước mặt chợ Bao Vinh. Trên vài chục năm trước, những gọ cá đầy khoang thẳng từ Thuận An tấp về, sau đó hàng được mua sỉ ùa ra chợ An Cựu và một số chợ xép. Đông đúc, lộn xộn và ô nhiễm, bến được chuyển đến đoạn sông cuối phố, đối diện cửa chùa Thiên Giang. Nguyên là một thảo am. Chùa làng. Dấu hiệu rõ nhất ở việc vừa thờ Phật (bức hoành bên phải từ trong chùa nhìn ra: Từ hàng tế độ) vừa thờ những con người phi phàm hoặc có công với nước (thể hiện qua bức hoành bên trái Thiên cổ vĩ nhân).

Vóc dáng Thiên Giang tự mang kiến trúc thời Lý Trần. Trong chùa còn bức tượng Phật bằng đất nung với khuôn mặt rất thuần Việt. Bên phải chùa có miếu Thành hoàng, bên trái là miếu Âm linh. Tích truyền, một ngày vua Tự Đức dong thuyền rong chơi, gặp mưa nên ghé chùa trú ngụ, và đặt tên chùa là Thiên Giang. Điều này có lý bởi thời vua chúa, nếu không là bậc đế vương mấy ai dám đặt tên sự vật gắn với chữ “Thiên”. Ba chữ “Thiên Giang tự” được khắc nổi ở chuông. Chuông không lớn, âm thanh trong và vang. Một số người cao tuổi vẫn truyền lại câu chuyện, rằng chuông do thứ phi của vua Quang Trung là bà Lê Hữu Tí dâng tặng. Gặp cảnh vua Gia Long quét sạch những gì còn vương lại từ tiền triều, chuông được dân làng chôn giấu, mãi sau này mới đào lên… Có lẽ người dân quá quý trọng vị anh hùng áo vải nên phần nào thêu dệt, chứ thực ra trên chuông ghi rõ “Gia Long nhị niên, trọng thu nguyệt, nhị thập tam nhật” (Gia Long năm thứ 2 - 1803, ngày 23 tháng trọng thu”, và còn khắc tên một số công tử nữa.

Chùa quay mặt về hướng đông. Vào sáng có cây bồ đề và cây sứ đỏ tỏa bóng xanh mát. Chiều về gió từ mặt sông lùa vào, mặt trời lấp lóa từ phía sau tạo nên một không gian trầm lặng, yên bình. Chùa gần chợ mà không đông, không nhiễm “văn minh” chợ. Dân quanh đây nhiều người hướng Phật, ý tứ giữ gìn nên qua bao nhiêu năm chùa “vẫn thế”. Cuộc sống có thể phát triển, từ cơ sở hạ tầng đến văn hóa lai tây tàu nhưng lối tu tập của người Phật tử vẫn nền nếp. Cứ tối đến lại có vài chục người đủ giai tầng đến chùa niệm “Nam mô A Di Đà Phật”. Trí thức có, tiểu thương, người khuyết tật có, đến chùa không phân biệt giàu nghèo gần xa đều gắng nhiếp tâm. Nếp này có từ xưa, nay không đổi. Văn bản của làng ghi rõ: Chỉ mở cửa chùa niệm Phật. Điều này cũng gần giống với tinh thần của Ấn tổ Tịnh độ tông: đạo tràng khoảng vài chục người, mỗi một việc niệm Phật cầu sanh Cực Lạc; tứ chúng cúng dường thì dùng tiền đó in kinh sách, không phí phàm một xu. Vào ngày vía Phật Di Đà, Phật tử, có Việt kiều là Phật tử của chùa gửi tiền, áo quần giúp con em học sinh của Gia đình Phật tử. Cứ vào ngày rằm tháng tư có lệ thu gom sách các lớp rồi phân loại, sửa sang, thiếu thì mua mới bù vào cho đủ bộ rồi phát cho con em của quý đạo hữu yên tâm vào năm học mới. Người trong đạo tràng đặt lệ “hũ gạo tiết kiệm”, cuối tháng góp chung tại chùa hỗ trợ người nghèo. Bên cạnh chút ít vật chất, điều quan trọng là hàng ngày mỗi người Phật tử đều nhớ đến người nghèo hơn mình; mỗi lần sớt lại nắm gạo chính là khơi dậy lòng từ bi sâu thẳm.

Quả thi vị, ở chùa luôn sẵn trà ngon… Ai cũng có thể ghé chùa, thanh sạch chánh niệm uống trà ngẫm về cõi đời ngắn ngủi và vũ trụ bao la. Khi sương còn giăng phủ, người ngủ ở chùa đánh chuông rồi tận hưởng vị trà thanh khiến lúc chuyến đò ngang đầu tiên vừa cập bến. Một đêm trăng treo trước cửa chùa, mấy người sau thời khóa công phu quây lại bên hiên chánh điện luận bàn đạo pháp. Ông trưởng ban hộ tự ngoài tám mươi vẫn một hình hài rắn chắc, còn bảo nếu có ốm đau cũng gắng bò đến chùa niệm Phật. Làm gợi nhớ đến ni sư Đạo Chứng, lâm bệnh nan y liền nguyện thà lễ Phật mà chết còn hơn chết ở trên giường. Một vị tổ sư đưa ra thí dụ sâu sắc: trăng tượng trưng cho Phật/Pháp, Tâm trượng trưng cho nước. Hễ đâu có nước sẽ hiện trăng. Nhưng nếu tâm ai vọng động (nước ấy không trong lặng), trăng nhấp nhóa mờ nhòa. Tâm càng trong trăng càng hiện rõ. Phật tử ở Bao Vinh thường đêm đến chùa niệm Phật niệm Phật thường đêm ở chùa chứng tỏ căn duyên sâu đậm lắm.

Về thăm Bao Vinh, hồ như thăm một người bạn vong niên lặng lẽ giữa nếp chợ ồn ào. Hình dung về một người lưng còng chống gậy dọc theo phố cổ dưới ánh chiều chếch trên những mái nhà hình bánh ú, và tôi có thể ghi lại khoảnh khắc ấy vào khuôn hình như những bức ảnh đen trắng quý hiếm chụp những chiếc thuyền “sót lại” của một thời thương cảng sầm uất. Phố cổ Bao Vinh đang oằn lưng bởi sức nặng của sự lãng quên, lặng lẽ ngồi lại với thời gian nuối tiếc một thời xuân xanh.

N.N
(SH296/10-13)






 

Các bài đã đăng
Chùm thơ Duy Từ (29/10/2013)
Huế trong tôi (25/10/2013)
Tình say (25/10/2013)
A Đon (25/10/2013)