TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
Mỗi cộng đồng dân tộc thiểu số trên đất nước ta đều có những lễ hội riêng của mình, trong đó có lễ tết. Cho dù tết lớn hay tết nhỏ thì cả cộng đồng đều tham gia bằng sức người và sức của để sau một năm làm lụng vất vả, sau một vụ mùa bội thu để nhìn lại và hướng tới một năm mới.
Nhân dịp xuân về, xin giới thiệu một phong tục tết cổ truyền của người Pacô ở Thừa Thiên Huế để chúng ta thấy được nét văn hóa độc đáo của cộng đồng các dân tộc thiểu số ở nơi đây.
Cứ mỗi độ xuân về, khi những loài cây đã thay lá, hoa Piêrpang đã nở trắng trên rừng là con cháu làng bản của anh em dân tộc Pacô, Tà ôi, Pahy, Cơtu lại nô nức đón chào ngày hội lớn, đó là hội A Da. Là tết cổ truyền, cho nên các dân tộc anh em đều có chung lễ hội này, tuy thời gian, ý nghĩa tổ chức giống nhau nhưng lại khác biệt ở quy trình, quy mô thực hiện. Nếu như ở Tà ôi, Cơtu chỉ tổ chức trong phạm vi họ hàng, gia đình thể hiện sự gọn nhẹ thì ở dân tộc Pacô lại tổ chức với quy mô mang tính cộng đồng nhiều hơn, sự khác biệt này đã thể hiện sự phong phú đa bản sắc văn hóa của anh em dân tộc sinh sống trên vùng cao A Lưới. Ở bài này chúng tôi sẽ giới thiệu lễ hội A Da của dân tộc Pacô cùng quy trình của tết cổ truyền khá cầu kì này để bạn đọc hiểu rõ hơn về nét đẹp độc đáo của lễ hội A Da.
Ở người Pacô có hai loại A Da, đó là “A Da Koonh” còn gọi là “A Da Pựt” (lớn) và “A Da Kăn”, còn gọi “A Da kâr loh ku mo” (nhỏ). A Da lớn thường diễn ra năm năm một lần, A Da nhỏ được tổ chức hàng năm thường diễn ra vào giữa tháng 11 dương lịch khi mùa màng vừa thu hoạch xong. Một điều đặc biệt ở lễ hội này là gia đình, làng bản không mời khách bạn bè, chỉ mời khách con cháu trong gia đình, đã đi lấy chồng hay sinh sống ở nơi xa, không lễ hội đâm trâu như ở lễ hội khác.
A Da được chia làm hai phần, đó là phần lễ và phần hội.
Lễ là phần quan trọng nên được thực hiện đầu tiên, từng bước rất chặt chẽ.
- Bước 1: Lễ giao ước “Moọt kâr hoọt”: Để quyết định khi nào lễ hội A Da được tổ chức chính thức, già làng cùng các trưởng họ, tập hợp lại tất cả các chủ gia đình tại ngôi nhà Moong chung của làng, họ cùng nhau bàn bạc kĩ lưỡng, sau khi đã thống nhất, già làng chuẩn bị sẵn một chum rượu cần vừa ủ xong, sau đó, già làng tay đậy chum lại, miệng khấn định ước: “Đây là chum rượu định ước của con cháu làng bản, khi nào rượu trong chum này lên men chín thì lễ hội A Da được tổ chức chính thức, cầu mong cho rượu cần này thơm ngon, đừng chua, đừng nhạt, cho A Da được vui vẻ trọn vẹn”.
- Bước 2: Lễ tẩy rửa “A xa a rah”: Đây là nghi lễ không thể thiếu được trong các lễ hội lớn nhỏ của dân tộc Pacô, nghi lễ như dòng nước trong sạch linh thiêng để tẩy rửa xua đi mọi tội lỗi dơ bẩn do con cháu gây ra, trả lại sự trong sạch cho làng bản, bởi người Pacô cho rằng: “Trước khi tổ chức lễ hội mà không làm nghi lễ này, thì con cháu làng bản sẽ gặp nhiều trắc trở, đau ốm chết chóc, lễ hội không được suôn sẻ”, lễ vật trong nghi lễ này là một con gà trống trưởng thành khỏe đẹp. Già làng sẽ dùng huyết tươi của gà chia đều cho các chủ gia đình để họ về bôi vào khắp vách nhà “để rửa sạch mọi tội lỗi nhơ bẩn do con cháu gây ra mà lâu nay chủ nhà không hay biết, mong Dàng thứ tội bỏ qua, cho ngày hội được suôn sẻ, cho con cháu mạnh khoẻ vui tươi”.
- Bước 3: Lễ chuẩn bị vật chất “Cha chọot”, như đã nói ở phần đầu A Da có hai loại, đó là A Da Koonh và A Da Kăn, A Da Koonh lớn hơn nên thời gian chuẩn bị dài hơn từ tháng rưỡi đến hai tháng, A Da Kăn nhỏ hơn nên chuẩn bị trong vòng một tháng.
Chuẩn bị cho ngày hội này chủ yếu là các món ăn, vật liệu để chế biến và nấu nướng, các loại thịt cá được bẫy bắt trên rừng về, phần thì nướng phơi khô, phần thì bỏ vào ống cất trữ bảo quản rất cẩn thận không để ôi thiu thối rữa, các loại cá sành thì được ủ vào từng hũ làm món “pa đẹc” thơm ngon. Thức uống trong lễ hội gồm có bốn loại: “A riêu” (rượu cần); “Siêu” (rượu trắng) được nấu từ sắn gạo; “Aviet” (rượu mía) được ủ với vỏ cây “krieyh” và “Tâm bộ” (rượu cơm) đặc được nấu từ gạo nếp.
Tất cả các vật liệu để chế biến các loại rượu này được tuyển chọn từ những cây mía, vỏ cây, hạt gạo, hạt nếp thơm ngon. Bánh đãi khách cũng vậy, các mẹ các chị chỉ chọn lấy những loại gạo đặc sản như: Tre, Ra dư, Cu da. Loại nếp; Aham, Cu chah, Cu hom. Để đạt được cơm bánh ngon nhất, họ tuyển chọn hạt gạo, hạt nếp hoàn hảo, loại bỏ nhưng hạt gạo lép vụn. Các loại bánh được chế biến từ gạo nếp như: “A koát” (hình dáng chiếc bánh giống như chiếc sừng dê), “A zưh” bánh giã nhuyễn trộn me gói lá dong, “Hoor” nướng ống.
Cũng như ở lễ hội khác, trong khi đang chuẩn bị họ có một tập tục là khách vãng lai, bạn bè, con cháu không được vào làng, vật báo hiệu cho tập tục này là hai bó lau lách đã được cuộn ngọn được chắn ngang ngay giữa cổng chính của làng, để tránh mọi điều xúi quẩy vào, sợ các món ăn thức uống sẽ bị hư. Ngày cuối cùng trước khi diễn ra lễ hội chính thức, các gia đình phải chuẩn bị các loại giống cây trồng, mỗi loại chỉ một cây hay một hạt, riêng mẹ lúa mỗi nhà mang một ít cây phải là cây khỏe đẹp và bó lại thành một bó to, sau đó, họ tập hợp sắp xếp thứ tự gọn gàng ở góc trái của nhà Mòong làng, các mẹ giống cây trồng đều đươc đeo các loại trang sức như: hạt cườm, mã não, đặc biệt mẹ lúa được đeo nhiều nhất. Ở gian giữa nhà Mòong là nơi cúng bái nên được trang trí trưng bày tất cả các loại thổ cẩm đẹp, quý như: Âr pòong, Âr doàng, Pa huun, Pakom. Ở cạnh phải gian giữa này, họ còn đặt thêm một vật gọi là “A ruông rọ” cho vị thần “Ku tăng” vị chúa của cây cối rừng xanh, và đây là khâu chuẩn bị cuối cùng nhất cho lễ hội.
- Bước 4: Lễ cúng A Da “Bayh A Da”: Ngày đầu tiên lễ hội A Da được tổ chức chính thức, từ sáng sớm tinh mơ, Già làng cùng các trưởng họ ra cổng chính dỡ bỏ vật cấm vào làng và chính thức đón khách gia đình con cháu vào dự hội.
Không khí trong làng lúc này thực sự nóng dần, mỗi gia đình dâng lên già làng từng “A điên” lễ vật người Pacô gọi là “Tâm pực” gồm 01 con gà trống luộc, 1 ống rượu trắng một bông nêu ngắn “Trang alang” còn bánh A koát thì tùy theo số lượng thành viên của mỗi gia đình, sau đó các mâm cỗ đó được các trưởng họ sắp xếp thứ tự tại gian giữa nhà Mòong “Bàn thờ A Da” nơi linh thiêng nhất của làng, tất cả con cháu được tập trung đầy đủ không thiếu một ai và ngồi sát nhau tại góc phải của nhà Moòng. Là vị chủ làng, là người chủ trì cúng bái nên già làng phải là người ngồi trước mâm cúng sau đó là các trưởng họ và các chủ gia đình, trong lúc lễ cúng A Da diễn ra, khách của làng không được ở trong làng mà phải ra ngoài chờ cho đến khi nào lễ cúng xong xuôi mới được vào.
Ở lễ cúng A Da có sáu lần khấn đó là: khấn gọi Dàng, khấn giao mâm, khấn mời ăn, khấn ơn nghĩa, khấn cầu xin, cuối cùng là tiễn Dàng về. Trước tiên già làng bốc một nắm gạo vung lên trước “Bàn thờ A Da” đồng thời, một chàng thanh niên khỏe mạnh đã được già làng chỉ định rút ống tre xanh đã được hun sẵn trên bếp lửa rồi đập mạnh vào đà cửa chính về hai hướng, mặt trời mọc “pâl loh” và mặt trời lặn “pâl lọot” khi ống tre nổ lần đầu già làng bắt đầu khấn: “Ơ Dàng! Nổ tiếng đầu hướng mặt trời mọc cầu cho hồn mẹ lúa, ngô, bầu, bí… về với cái nương cái rẫy, không được lưu lạc nơi khác, cho con cháu làng bản mùa màng bội thu được sung túc no đủ hơn. Nổ tiếng hai hướng mặt trời lặn cầu cho hồn của cải, tiền bạc đầy nhà, đi vùng Lào cầu mua được nhiều trâu, bò, dê, voi, đi vùng Tà oayh “Tà ôi” mua và đổi được nhiều khố, váy, Dzèng đẹp bền, đi đồng bằng cầu mua được nhiều cồng, chiêng, chum ché quý”. Lúc này tiếng trống chiêng bắt đầu nổi lên bằng giai điệu “Pâr lư” chậm rãi ấm áp, già làng lại tiếp tục;
- Khấn mời Giàng và giao mâm cỗ: “Hôm nay, chum rượu định ước đã được mở, hội A Da đã tổ chức chính thức, mời các vị Dàng “Ku Tiẹc” đất đai, “Âr Baang” Trời, “Ku Tăng” Cây cỏ, “Pụa” Nắng, “Boo” Mưa, “Kâr hil a zol” Lửa, “Cu lun” Giun đất, và các mẹ “Tro” Lúa, “Đẹp” Nếp, “A ưm” Ngô… hãy xuống đây cùng chung vui với con cháu làng bản, mâm cỗ này là lòng thành của con cháu xin các vị Giàng vui lòng đón nhận”.
- Khấn mời ăn: “Ơ Dàng! con gà, bánh A koát đã chín mềm thơm ngon xin mời Dàng ăn, các loại rượu, siêu, A riêu, Avieet, Tâm bộ đã được mở sẵn xin mời Dàng uống, cho con cháu vui lòng mát dạ”. Khi hương “ki kul” đã tàn thì đồng nghĩa là các vị Dàng đã ăn no, lời khấn lại được trân trọng cất lên.
- Khấn ơn nghĩa: “Con cháu làng bản luôn biết ơn Dàng Trời đã che chở, Dàng Đất đã ban cho nơi trồng trọt, chịu ngứa ngáy khi cuốc đất làm cỏ, Dàng Cây cỏ đã chịu đau đớn chết chóc khi bị chặt phá, Dàng Nắng đã phơi khô, Dàng Lửa đã thiêu trụi ban cho lớp tro tàn màu mỡ, Dàng Mưa đã tưới mát cho cây trồng tốt tươi, Dàng Cu lun đã đẻ ban cho lớp đất mùn màu mỡ và các mẹ lúa, ngô, bầu, bí… đã sinh sôi nảy nở, nuôi dưỡng con cháu làng bản sung túc no đủ”.
- Khấn cầu mong: “Già làng cùng con cháu cầu xin các vị Dàng. Đất, Trời, Nắng, Mưa, Lửa, giúp đỡ con cháu phát, cốt, đốt, trỉa thuận lợi hơn. Cầu mong các giống mẹ lúa, ngô, bầu, bí…. bông dài nẩy hạt, cây to, củ lớn, tốt tươi hơn nữa, để con cháu được sung túc no đủ hơn, cho hội A Da năm sau to hơn, vui vẻ hơn”.
Sau lời khấn cầu mong này, già làng cùng các trưởng họ cầm lấy bông nêu vứt lên trên các tấm thổ cẩm trưng bày “Bàn thờ A Da” vứt làm sao cho bông nêu phải móc dính vào các tấm thổ cẩm đó, bởi người Pacô quan niệm rằng “Nếu các bông nêu dính chặt thì sang năm cả làng sẽ mùa màng bội thu, còn bông nêu mà rơi xuống thì mùa màng năm sau sẽ mất mùa cả làng sẽ nghèo đói”. Trong lúc này, ngoài trời đã gần trưa, đã đến lúc Dàng phải trở về nơi trị vì của mình. Để thể hiện lòng tôn kính với các đấng thần linh, già làng thực hiện bước khấn cuối cùng.
- Khấn tiễn Dàng: “Ơ Dàng! Thịt gà thơm, cơm bánh ngọt Dàng đã ăn no, rượu trong chum, ché Dàng đã uống cạn, bây giờ con cháu kính tiễn Dàng vui vẻ trở về ngôi nhà của Dàng, hẹn hội A Da năm sau con cháu lại mời Dàng đến”. Lúc này từ già làng cho đến con cháu tất cả đều cúi lạy kính tiễn Dàng về.
Trong các lần cầu khấn từ “mời Dàng xuống” cho đến khi “tiễn Dàng về” không tránh khỏi sơ suất trong lời ăn tiếng nói làm cho Dàng phật lòng, để nhận biết được điều này, già làng cầm sẵn trên tay một cặp “A xiéu” vật linh thiêng của làng được truyền từ đời này sang đời khác chứ không được làm mới, cứ sau mỗi lần khấn là già làng lại thả cặp “A xiéu” xuống mặt chiếu năm lần, nếu trong năm lần thả, sau mỗi câu khấn mà “A xiéu” đều lật ngửa, thì được xem mọi việc đều suôn sẻ, Dàng đã bằng lòng, nhưng nếu năm lần thả, sau mỗi lần khấn mà “A xiéu” ụp xuống thì mọi việc không được tốt, Dàng không được bằng lòng, tuy nhiên già làng là người giỏi giang về tập tục có nhiều kinh ngiệm trong việc cúng bái, cho nên già làng sẵn có nghệ thuật thả làm sao cho “A xiéu” phải lật ngửa.
- Bước 5: Nghi lễ ăn tết A Da chung “Ngọi A Da - cha pa chung”. Các vị Dàng đã trở về nơi ở của mình, ở nhà Mòong còn lại già làng cùng con cháu, lúc này già làng mới ban lệnh cho các trưởng họ tập hợp lại tất cả con gà cúng của các gia đình xé ra từng miếng nhỏ rồi trộn đều, bánh A koát cũng vậy, sau đó, được chia ra thành ba mâm. Mâm giữa dành cho già làng, lão làng, trưởng họ. Mâm bên phải dành cho đàn ông, thanh niên. Mâm bên trái dành cho phụ nữ trẻ em. Mâm cỗ được phân chia rất đều tùy theo số lượng người trong mâm đó, mâm cỗ phải ăn hết ngay tại nhà Mòong không được dư thừa, nghi lễ ăn chung này chỉ có ở lễ hội A Da mà thôi. Đây là một nghi lễ đẹp thể hiện tình cảm gắn bó thiêng liêng của con cháu làng bản, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau, không phân biệt chia rẽ người giàu sang kẻ nghèo hèn, đơn côi hay góa bụa, tất cả mọi người như một.
- Bước 6: Mừng lễ thành công “Krao ada”. Lễ cúng Dàng đã thành công, lễ ăn chung đã trọn vẹn, để vui mừng cho phần lễ đã diễn ra suôn sẻ này, tất cả mọi người có mặt tại nhà Mòong đều đứng dậy, mắt hướng về cửa chính và nắm tay nhau thật chặt, già làng cùng các trưởng họ đứng sát ngay tại cửa chính, sau đó già làng cất tiếng gáy đầu tiên, tiếp sau là tiếng gáy theo của các trưởng họ và tất cả con cháu, họ cùng nhau gáy ba lần liền hồi như gà trống gáy vậy, tiếng gáy phải đồng thanh, khỏe, vang xa, nét mặt thể hiện sự vui tươi phấn khởi. Nghi lễ này vừa mừng thành công đồng thời, như muốn thông báo khẳng định với con cháu rằng: Sang năm mới, con cháu làng bản muốn lên rừng phát nương làm rẫy chuẩn bị cho vụ mùa sắp tới cứ thoải mái không còn lo sợ, kiêng cữ gì nữa, vì lễ hội A Da đã xong xuôi Dàng, thần linh đã cho phép.
Phần hội: Như đã nói ở phần đầu A Da có hai phần đó là phần lễ và phần hội, phần lễ dù A Da lớn hay A Da nhỏ nhưng chỉ diễn ra trong một buổi sáng đầu tiên của lễ hội, thời gian còn lại là phần hội, A Da nhỏ thì diễn ra từ hai đến ba ngày, A Da lớn thì kéo dài từ ba đến năm ngày. Vì vậy, sau khi phần lễ kết thúc mọi người trở về nhà để chuẩn bị tiếp đón khách. Buổi tối đầu tiên của lễ hội, già làng cùng các trưởng họ đi đến từng gia đình để hỏi thăm chúc tụng, không để thiếu sót một gia đình nào, bên ánh lửa bập bùng, họ cùng nhau hát hò, nhảy múa chúc tụng nhau bằng điệu múa A Da, Poon, Ẹo và cùng đối đáp nhau bằng dân ca “Kâr lơợi”, “Târ a”, “Xiềng”, “Cha chấp” cùng nhịp trống, tiếng chiêng bằng giai điệu “Pâr lư” ấm áp tình người. Các món ăn, thức uống đặc biệt đã được chuẩn bị lâu nay cũng được dọn ra đãi khách, họ cùng vui chơi, ăn uống chúc tụng nhau thâu đêm suốt sáng như vậy cho đến khi lễ hội kết thúc.
Trước khi khách con cháu ra về, trưởng họ cùng các chủ gia đình thực hiện một nghi lễ cuối cùng đó là nghi lễ “Târ lêh” lễ “Tiễn khách”. Mâm cỗ trong nghi lễ này là một con gà luộc, một tấm thổ cẩm, một “A điên” bánh A koát cho mỗi chủ khách. Lễ tiễn khách này là để cầu mong cho con cháu trở về an toàn, sang năm đi thăm viếng nhau sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn và mâm cỗ này khi khách về tới nhà cũng phải dọn ra trước bàn thờ tổ tiên mình để báo cáo như trước khi đi dự hội vậy, nếu không Dàng sẽ trách móc hỏi han.
A Da là lễ hội truyền thống, là tết cổ truyền của dân tộc Pacô nói riêng các dân tộc Tà ôi, Cơtu, Pahy nói chung. Đây là một trong những nét văn hóa tốt đẹp, độc đáo mà chúng ta cần được gìn giữ, phát huy và duy trì hàng năm đúng theo chu kì của nó. Bởi A Da không chỉ là lễ hội, là ngày tết vui tươi nhộn nhịp mà còn thể hiện lòng thành kính đến các vị thần linh, lòng biết ơn đến mẹ của các giống cây trồng đặc biệt là mẹ Lúa đã nuôi dưỡng lớp lớp con cháu từ thế hệ này đến thế hệ khác. Lễ hội A Da cũng đã thể hiện rất rõ tình cảm gắn bó thiêng liêng sống chết có nhau, no đói cùng nhau của con cháu làng bản. Đáng mừng là hiện nay đã có nhiều làng vẫn còn trân trọng duy trì lễ hội này như: Làng Đụt, Tâl Ay, Ân Trieng, A Nieng (xã Hồng Trung). Làng A Năm, Ta Lo, A Hố (xã Hồng Vân). Làng A Ziêl (xã A Ngo). Làng A Đeng (xã Bắc Sơn). Mùa xuân mới lại sắp về, hy vọng rằng lễ hội A Da đẹp đẽ ấm áp tình người này sẽ sống lại nở rộ vui tươi, rộn ràng trong khắp bản làng của các dân tộc anh em Pacô, Tà ôi, Cơtu, Pahy cùng các dân tộc anh em khác đang sinh sống trên miền rừng xanh của miền tây Thừa Thiên Huế trên mảnh đất A Lưới thân yêu.
T.N.K.P
(SH300/02-14)