Tạp chí Sông Hương - Số 323 (T.01-16)
Văn hóa nhiếp ảnh đất Cố đô
09:01 | 23/02/2016

LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

Một người Huế là ông tổ của nền nhiếp ảnh Việt Nam   
Ngày 14/3/1869 là dấu mốc vàng đáng nhớ của lịch  sử nhiếp ảnh Việt Nam khi cụ Đặng Huy Trứ khai trương  hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường ở phố Thanh Hà (Hà Nội). 

Văn hóa nhiếp ảnh đất Cố đô
Tượng cụ Đặng Huy Trứ tại làng Thanh Lương (Huế)

Cụ Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) quê ở làng Bác Vọng,  sau chuyển sang ở làng Thanh Lương, huyện Hương Trà,  tỉnh Thừa Thiên Huế. Với Cảm Hiếu Đường, lần đầu tiên  người Việt ta có một hiệu ảnh phục vụ cho nhu cầu chụp  ảnh rất mới mẻ của mình ngay chính trên bản quán quê  hương. Sau này, theo quyết định của Hội Nghệ sĩ Nhiếp  ảnh Việt Nam, ngày 14/3 hằng năm được chọn làm Ngày  Nhiếp ảnh Việt Nam. Hằng năm, vào ngày này, Hội  Nhiếp ảnh cả nước và địa phương Thừa Thiên Huế đều  tổ chức lễ dâng hương tại nhà thờ họ Đặng ở Hương Trà.

Cụ Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) được mệnh danh là  “người trồng mầm khai hóa” cho nước nhà, được chí sĩ  Phan Bội Châu hoan nghênh. “Mầm khai hóa” đó không gì hơn là bộ môn nhiếp  ảnh, thời bấy giờ rất đỗi lạ lẫm với người Việt ta. Trên thế giới trước đó đã có những  mốc phát triển quan trọng của nhiếp ảnh. Vào năm 1829, kỹ thuật nhiếp ảnh do nhà  vật lý người Pháp Nicéphore Niépce (1765 - 1833) cùng với người em là Claude  phát minh. Năm 1835, Wiliam Henry Fox Talbot, một nhà khoa học của nước Anh  đã có được bức ảnh đầu tiên. Năm 1839, Louis Daguerre, người Pháp cũng cho ra  kỹ thuật chụp hình ảnh được ghi lại trên một miếng gỗ phẳng có thoa chất i ốt bạc.  Cùng năm, Chính phủ Pháp tuyên bố phát minh này là “món quà tặng miễn phí cho  toàn thế giới”. Hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường của cụ Đặng Huy Trứ là một xu hướng  tiếp cận thời đại, chỉ sau 30 năm máy ảnh đầu tiên được chụp theo công nghệ ưu việt  nhất của Louis Daguerre được phát triển rộng trên thế giới. Từ đây, người Việt ta có  thể sở hữu những bức ảnh như ý muốn, tạo dựng một hệ hình văn hóa cho cộng đồng.  Chính nhờ việc cụ Đặng Huy Trứ đi nhiều, tiếp xúc nhiều và có tầm tư duy quảng  bác. Trong hai lần đi sứ vào năm 1865 và 1867, cụ đã quan sát nghề ảnh, rồi mua  máy ảnh, phụ tùng và mở hiệu ảnh không phải để kinh doanh kiếm lời mà là nhằm  quảng cáo kỹ thuật mới giúp con cháu có ảnh cha mẹ, ông bà làm trọn chữ hiếu.  Sự nghiệp của ông đều nhằm mục đích canh tân đất nước, phải theo kịp phương  Tây để khỏi thua thiệt, dẫn đến mất nước. Chụp ảnh là một sinh hoạt trong hàng  loạt công cuộc truyền  bá theo cách Đặng Huy  Trứ. Để quảng cáo cho  Cảm Hiếu Đường, cụ  Đặng Huy Trứ đã tự  viết bảng quảng cáo rất  gợi: “Xưa nay không ai  tái sinh được xương thịt.  Tuy ứng theo lòng, chụp  ảnh tái hiện được tinh  thần”. Chụp ảnh đã lưu  lại những bức ảnh của  con người theo từng thời  điểm, “tái hiện được  tinh thần” như mong muốn, là thứ “kỷ niệm vật chất” của con người. Lí giải vì sao  nhiếp ảnh quan trọng với cuộc sống của người Việt ta, cụ viết: “Nay muốn sớm tối  vui như trẻ được mặc áo hoa, ngoài nghìn dặm mà dường như dưới gối, luôn luôn  thấy mặt, trăm năm sau mà vẫn in như trước mắt, khiến mọi người đều tỏ được tấm  lòng thành hiếu thì chỉ có cách chụp ảnh là hay nhất”. Cái sự “trăm năm sau mà  vẫn in như trước mắt” từ công nghệ của Cảm Hiếu Đường thu hút người dân. Sản  phẩm ảnh chụp của Cảm Hiếu Đường lập tức gây tiếng vang khắp gần xa, được  người dân Hà thành và các vùng lân cận hưởng ứng. Chỉ cần đến Cảm Hiếu Đường  chụp ảnh, 4 ngày sau sẽ có ảnh giao lại cho khách hàng. Đáng tiếc là những bức  ảnh của Cảm Hiếu Đường ngày nay không lưu giữ được bản nào, có chăng vì lí do,  ảnh chụp cá nhân nên người dùng dịch vụ đã giữ ảnh cả.

Tháng 6/1996, tên cụ Đặng Huy Trứ đã được thành phố Huế đặt cho con  đường dài hơn 1km chạy từ ngã ba Thánh Giá tới ngã ba đường Ngự Bình. Cũng  trong năm này, ngày 18/10/1996, trường cấp 2 - 3 Hương Trà được đổi tên thành  trường Đặng Huy Trứ.  

Văn Sán - hiệu ảnh đầu tiên ở Huế

9 năm sau hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường ra đời ở Hà Nội, hiệu ảnh Văn Sán sáng  lập năm 1878 là hiệu ảnh thứ hai ở Việt Nam và là hiệu ảnh đầu tiên ở Cố đô Huế.  Trước đó, hầu như thông tin về “tiểu phép chụp ảnh” rất xa lạ với triều đình Huế.  Sự kiện các quan trong đoàn sứ giả Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Ngụy Khắc  Đản qua Paris năm 1863 do vua Tự Đức cử đi thương thuyết, cứu vãn tình hình ở  Nam Kỳ. Trong lần này, vô tình sứ đoàn được người Pháp chụp ảnh và lần đầu tiên  người Việt Nam biết đến bộ môn nhiếp ảnh. Tất cả điều này được cụ Phạm Phú  Thứ ghi lại trong “Như Tây Sứ Trình Nhật Ký”. Năm 1864, Phan Thanh Giản đem  những bức hình chụp tại Paris năm 1863 nhân dịp ông dẫn đầu sứ bộ sang Pháp để  xin chuộc đất về Huế gây sự ngạc nhiên cho triều đình đến dân chúng. Một điều  thú vị trong “cuộc gặp gỡ nhiếp ảnh” này là việc một người Huế được chụp ảnh  đầu tiên. Theo tư liệu nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, trong phái đoàn có một  vị quan võ tòng ngũ phẩm, tên là Nguyễn Hữu Thận lúc đó 30 tuổi đã được người  Pháp chụp ảnh lại. Ông Thận là ông sơ của bà Nguyễn Thị Cúc (vợ Đại tướng  Nguyễn Chí Thanh), ảnh chụp nay vẫn còn.  

Đoàn sứ thần nhà Nguyễn ở Pháp. Ảnh tư liệu, chụp tại Paris năm 1863


Những tấm ảnh như thật ấy dẫn đến việc triều đình liền nghĩ đến việc cho  người đi học cái nghề rất lạ lẫm này để về phục vụ cho người trong nước. Việc vua  Tự Đức cho Trương Văn Sán sang châu Âu học nghề chụp ảnh phải chăng là một  động thái “ưa học hỏi” của một triều đình vốn được cho là khá bảo thủ với thời đại.  Trương Văn Sán sau đó đã được cho qua học nghề chụp ảnh và mất một thời gian  khá dài ông mới về nước năm 1878, so với Cảm Hiếu Đường đã thua mất 9 năm.  Có người nói, tại sao triều đình lại không sử dụng Cảm Hiếu Đường của cụ Đặng  Huy Trứ? Có thể công việc của cụ Đặng đi lại nhiều, nhưng toàn ở đất Bắc, việc  của Cảm Hiếu Đường có thể không đến tai triều đình Huế. Sau khi đi công cán ở  Trung Quốc về ông mở hiệu ảnh và từng giữ chức Bang biện quân vụ Lạng-Bằng-Ninh-Thái. Năm 1873, thành Hà Nội thất thủ dưới tay quân Pháp, rồi việc cụ Đặng  mất năm 1874 thì Cảm Hiếu Đường cũng hết kinh doanh. Có lẽ vì thế mà hiệu ảnh  Văn Sán mới được triều đình Huế coi trọng và thích thú.

“Tiểu phép chụp ảnh” của Trương Văn Sán được xem là mới mẻ, được triều  đình hoan nghênh. Vua Tự Đức hài lòng, cho bộ Công giúp ông Sán mở một hiệu  ảnh lấy tên là Văn Sán bên phải sở Thương Bạc (nằm trên đường Trần Hưng Đạo,  gần cửa Thượng Tứ hiện nay) để chụp ảnh. Hiệu ảnh Văn Sán có những đồ nghề  như sau: Một máy ảnh hình hòm kèm theo ống kính, hai trụ sắt, một khuôn chặn  giấy, một giá đặt máy ảnh (chân máy ảnh). Phòng chụp là một căn nhà có lắp kính  để hứng ánh sáng. Xem ra khá hiện đại vào thời ấy. Hiệu ảnh Văn Sán chuyên  chụp ảnh cho vua, hoàng tộc, quan lại trong triều, sau được cho chụp cho tất cả  những ai có nhu cầu bên ngoài. Khác với Cảm Hiếu Đường, hiệu ảnh Văn Sán  ngày nay còn lưu lại chân dung một số vị đại thần nhà Nguyễn khi ấy được hiệu  ảnh này chụp như Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết…  

Người Huế rất thích nhiếp ảnh

Ở Huế, vào thập niên 1960 - 1970 xuất hiện rất nhiều hiệu ảnh. Khu vực đông  nhất vẫn là đường Thượng Tứ, nơi có rất nhiều hiệu ảnh hoạt động náo nhiệt. Thời  đó, các hiệu ảnh gọi là tiệm chụp hình hay tiệm chụp ảnh đặt trước tên hiệu mình.  Các hiệu ảnh đó là: tiệm chụp hình Tăng Vinh, tiệm chụp ảnh Ngọc Châu, tiệm  chụp hình Phi Phước, tiệm chụp hình Phi Long (bao gồm vẽ chân dung), tiệm chụp  hình Tôn Thất Dung, nữ họa sĩ và chụp hình Maria Mộng Hoa, và hiệu ảnh Đông  Nam. Trong số đó, đặc biệt có ba hiệu ảnh của ba 3 anh em ruột là Phi Hổ, Phi Long  và Mộng Hoa đều có có mặt trên đường này. Hiệu ảnh Tôn Thất Dung nổi bật với  việc chuyên khai thác chân dung các em bé đủ kiểu: khóc, cười, mếu, bò, lật, đứng,  ngồi... rất ngộ nghĩnh.

Tác giả Quế Chi Hồ Đăng Định trong Thượng Tứ ngày xưa, nhớ nhớ quên quên đã hồi tưởng rất dí dỏm: “Vị chi là 7 tiệm cùng hành nghề trên một đoạn đường  ngắn… như cái lỗ mũi. Rứa mà ai cũng sống, ai cũng có khách, thậm chí có tiệm  dẹp rồi thì người khác đến cũng lại mở tiệm chụp hình”. Sự kế thừa kiểu phường hội nhiếp ảnh được duy trì khi có hiệu ảnh khác đóng cửa thì người nối tiếp cũng  mở lại hiệu ảnh. Chẳng hạn như hiệu ảnh Tôn Thất Dung đóng cửa thì hiệu ảnh Ái  Mỹ thay thế, hiệu ảnh Phi Long về Trần Hưng Đạo thì hiệu ảnh Gi Na thế chỗ. Các  hiệu ảnh làm ăn rất phát đạt, nhiều chủ hiệu trở nên giàu có nhờ nghề. Điển hình  như vợ chồng ông Thảo, vốn là học trò của chủ hiệu Tôn Thất Dung, sau mở hiệu  Gi Na, “hốt bạc” nhiều đến nỗi “Tết Mậu Thân (1968) phải dồn vô mấy bao bố  gạo 100 kí, rồi thuê người gánh chạy qua cầu Trường Tiền, tới trường Kiểu Mẫu”.  (Theo Quế Chi Hồ Đăng Định).  

Muộn hơn đường Thượng Tứ là các hiệu ảnh ở đường Trần Hưng Đạo. Đầu  tiên là chủ hiệu Phi Long về mua nhà ở gần cầu Trường Tiền mở lại tiệm chụp  hình và vẽ chân dung trên đường này. Sau có nhiều nhà chụp hình nổi tiếng như Lê  Quang, Tuyết Anh, La Cảnh Lưu, MiLy... tiếp tục khai trương và làm ăn rất bền  vững. Trong đó, hiệu ảnh Lê Quang ở đường Trần Hưng Đạo được biết đến là hiệu  ảnh nổi tiếng vào bậc nhất tại Huế những năm 70. Ở chợ Bến Ngự có hiệu ảnh Mỹ  Vân, chủ hiệu là ông Tin, thuộc hàng bậc nhất về ảnh bên bờ nam.

Sau Hiệp định Genève, một đôi vợ chồng người Huế là ông Lâm Bình và bà  Trần Thị Hiền được sự phân công của tổ chức hoạt động bí mật nhằm đối phó với  tình hình lúc bấy giờ. Họ đã bám trụ ở vùng giới tuyến ác liệt gần 20 năm dưới vỏ  bọc chủ hiệu ảnh mang tên Thanh Bình. Hai vợ chồng dựng nhà tranh, vách đất  để mở hiệu ảnh, dùng máy Rolay, Pentak. “Hiệu ảnh điệp báo” này đã cung cấp  thông tin cho lực lượng an ninh bên ta về tình hình giới tuyến. Về sau, hiệu ảnh  này còn là nơi nhiều chiến sĩ nhờ gửi ảnh chân dung về cho gia đình trước khi lên  đường vào Nam chiến đấu. Sau năm 1975, một hiệu ảnh của nhà nước được mở  trên đường Trần Hưng Đạo, góp mặt với hàng chục hiệu ảnh đang hoạt động trên  thành phố Huế. Với công nghệ thời này, ảnh muốn in phải làm trong buồng tối,  pha thuốc, rồi nhúng từng cái phim vào. Chờ ảnh hiện lên, tráng qua tráng về, khi  rõ nét mới đưa ra sấy dưới ngọn đèn điện 500w.  

Ngày nay, các hiệu ảnh mọc lên như nấm ở các trục đường chính như Hùng  Vương, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo... Công việc làm ảnh ngày càng hiện đại, có máy  kỹ thuật số tha hồ bấm, lại có phần mềm photoshop chỉnh sửa ảnh theo nhu cầu  người chụp. Người dân Huế cũng tự mua máy ảnh chụp ở nhà, không cần phải ra  tiệm. Ngoài Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh tỉnh Thừa Thiên Huế, còn có hàng chục câu lạc  bộ nhiếp ảnh của những người Huế yêu bộ môn nghệ thuật này. Những tay máy tỏa  khắp tỉnh thành, ghi lại những khoảnh khắc cuộc sống ở vùng đất Cố đô.

S.K 
(SH323/01-16)

----------------------------
Bài viết có tham khảo một số nguồn tư liệu:

- Trần Phong Nguyên, “Điều chưa biết về Cảm Hiếu Đường, ông Tổ “nghề nhiếp ảnh Việt  Nam”, 2012.
- Nguyễn Đắc Xuân, “Nhiếp ảnh triều Nguyễn và những ông vua đầu tiên được chụp ảnh”, 2014.
- Nguyễn Đức Hiệp, “Lịch sử nhiếp ảnh Việt Nam: Con đường nhiếp ảnh vào Việt Nam  (P.1)”, 2013.
- Phanxipăng, “Người trồng mầm nhiếp ảnh ở Việt Nam”, 2001.





 

Các bài đã đăng