Tạp chí Sông Hương - Số Đặc Biệt (T.4-16)
Tuồng Huế và gia đình họ La
09:33 | 08/06/2016

TRẦN NGUYỄN QUÂN

Nhắc đến Tuồng Huế những năm cuối thế kỷ XX, người ta phải nhắc đến gia đình cố lão nghệ nhân La Cháu. Gần như bất kỳ ai trong gia đình này cũng gắn liền với nghệ thuật truyền thống Huế, trong đó có những người nặng nghiệp với Tuồng. Cố lão nghệ nhân La Cháu như gốc cây cổ thụ của Tuồng Huế, mà con cháu là cành nhánh xum xuê, nay vẫn ươm nở trái quả ngọt lành.

Tuồng Huế và gia đình họ La
Mặt nạ tuồng Hùng Oai (La Cháu)

Nghệ nhân La Cháu sinh năm 1911 ở làng Hà Trung, xã Vinh Hà, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế. Do có bà con với bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại, một người mê tuồng Huế, cha cụ là La Ngạn được cho vào học tuồng ở Thanh Bình Thự từ sớm. Năm lên tám, cụ La Cháu cũng được vào học lớp đồng ấu ở Thanh Bình Thự với thầy Quảng Phước và thầy Đội Em là hai nghệ nhân tuồng nổi tiếng đời Thành Thái. Với trí thông minh thiên bẩm, chất giọng khỏe, ông lĩnh hội rất nhanh các ngón nghề được các thầy dạy vũ đạo, dạy hát truyền dạy. Vai diễn đầu tiên của cụ La Cháu là Trịnh Ấn (con của Trịnh Ân) trong vở tuồng “Trịnh Ân”. Từ sau đó, cụ trở thành “ngôi sao” trong dàn diễn viên tuồng phục vụ hoàng cung thời đó. Vua và hoàng hậu, các quan đều rất thích nghe cụ hát tuồng, xem hát xong đều thưởng hậu hĩnh. Gần hai mươi năm làm nghệ sĩ tuồng hoàng cung, cụ đã theo vua đi hát khắp nơi, nhiều lần xuất ngoại sang Lào, Campuchia, Thái lan, Anh, Pháp, Nam Phi… Về sau này, cụ cũng theo các đoàn nghệ thuật Huế sang châu Âu biểu diễn giao lưu văn hóa cấp nhà nước…


Khi cụ còn sống, chúng tôi thỉnh thoảng ghé cụ hầu chuyện. Cụ vui chuyện kể đủ thứ, trong đó có chuyện học hát tuồng. “Hồi đó học hát tuồng cũng học dữ lắm chứ không giỡn chơi mô” - cụ nhớ lại. Để hát tuồng hay, diễn viên cần có chất giọng mạnh mẽ, dài và sâu, vang xa, thể hiện được sự trầm bổng trong diễn xuất. Vì vậy luyện giọng cũng phải rất kỳ công. Luyện cho được giọng vỡ toác ra thì phải chui đầu vào chum mà hét, cho đến khi khản giọng mới thôi. Lại phải luyện hát dân ca cho giọng mềm, luyện cả giọng nam, giọng nữ, giọng người già, người trẻ, hóa thân y hệt ngoài đời… Kỳ công không kém là những vũ điệu, đòi hỏi diễn viên phải tập trung cao độ, hài hòa giữa vũ đạo, lời ca… Rồi lại luyện nét mặt, để luyện gương mặt lạnh ngắt không giọt máu, có khi phải đến hàng tháng trời cau có trước tấm gương soi…

Hát tuồng từ năm tám tuổi, khi qua đời ở tuổi đúng một trăm, cụ gắn bó đến 92 tuổi nghề với ánh đèn sân khấu Tuồng Huế. Cũng do vậy khiến cụ có dịp thử sức hàng trăm vai diễn chính diện và phản diện, vai nào cụ diễn cũng hay. Nặng lòng hết sức với Tuồng Huế. Trước nguy cơ mai một bộ môn hát tuồng, năm 1976, cùng với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, cụ bắt tay vào việc phục chế trang phục tuồng từ áo mão cân đai đến hia hài. Có một điều thật đặc biệt, cụ luôn tự mình hóa trang và có thể vẽ mặt nạ tuồng cho mình bằng cả hai tay. Năm 94 tuổi, cụ vẽ ròng rã trong hai tháng cho xong bộ sưu tập mặt nạ tuồng. Bộ mặt nạ tuồng này đã được giải thưởng Văn học Nghệ thuật Cố đô. Mặt nạ tuồng của cụ đã từng được in thành sách, hiện trong sưu tập cá nhân của nhà thơ Trần Ngọc Trác ở Đà Lạt có gần 100 bức mặt nạ tuồng do cụ La Cháu vẽ.

Đến khi tuổi tác không còn cho phép cụ diễn trên sân khấu, cụ lại tỉ mẩn truyền dạy lại ngón nghề cho nhiều thế hệ học trò hát tuồng, nhiều người thành danh như Bạch Hạc, Chánh Huế, Thanh Long, Diệu Hy, Thu Vân…; đặc biệt đáng kể là những người con của cụ.

Khi còn sống, cụ La Cháu thường cất giọng sang sảng: Tui là nghệ nhân hát tuồng, đương nhiên đã là con của tui thì cũng phải hát tuồng. Không biết hát tuồng thì  không phải là con tui. Tui  có mười sáu đứa con, trừ một đứa làm hỏa xa, còn lại tất tật đều theo nghệ thuật truyền thống Huế hết. Nghiệp Tuồng dạy cho tui nhiều thứ lắm, lòng nhân ái, bao dung, lòng trung thành, kiên cường, hiếu thảo… cũng từ đó mà hun đúc nên.

Trong gia đình nghệ nhân La Cháu, đến nay đã có bảy người theo nghiệp sân khấu. Cụ lấy làm hạnh phúc khi con cháu có nhiều người theo nghề cha ông. Có khi trên sân khấu cả ba anh em một nhà cùng diễn. Ví như trong vở “Quan Công cử binh”, La Hoàng Nguyên vào vai Quan Công, La Thanh Hùng vào vai Châu Xương, còn Phan Thu Thủy vào vai Quan Bình. Cả gia đình cùng đi diễn rồi cả gia đình cùng đi thi. Người trong nghề còn nhớ năm 1993, năm cha con nghệ nhân La Cháu đi thi thì đoạt đến sáu giải: hai giải đặc biệt, một huy chương vàng, hai huy chương bạc, một giải khuyến khích.

Một trong những người con kế tục xứng đáng cơ nghiệp của cụ là nữ nghệ sĩ La Cẩm Vân. Như một điềm lạ, La Cẩm Vân sinh ra ngay trong Đại Nội Huế, lớn lên với không gian Hoàng Thành. Năm lên chín, chị đã theo học trong đoàn Ba Vũ, với đủ các môn hát tuồng, múa cung đình, ca Huế, Nhã nhạc cung đình. Ngoài được truyền nghề từ cha, chị còn được học thêm các ngón nghề từ các nghệ nhân tài danh khác như Viên Bờ, Trần Xuân Dục, cô Tư Huệ, cô Tư Na… nên chị tiến bộ rất nhanh.
 

NSND La Cẩm Vân

Nhưng rồi La Cẩm Vân cũng sớm nhận ra nghệ thuật Tuồng có nguy cơ tan rã trước các biến động thời cuộc. Lao đao lận đận cùng với sự mai một nghiệp hát Tuồng bao nhiều năm không làm chị nản chí. Năm 1987, Đoàn nghệ thuật truyền thống Huế đứng trước nguy cơ bị tan rã, bạn diễn gạt nước mắt chia tay về quê bỏ nghề mưu sinh. Không cầm lòng được trước việc di sản cha ông bị vùi chôn, chị lập đề án xây dựng lại đoàn trình lên Sở Văn hóa Thông tin. Lãnh đạo sở ủng hộ chị. Năm 1987, chị làm Trưởng đoàn nghệ thuật truyền thống Huế. Năm 1993, chị được phong tặng danh hiệu nghệ sĩ ưu tú duy nhất về múa cung đình. Năm 2000, Hội thảo khoa học “Bảo tồn và phát huy giá trị Tuồng Cung đình Huế” được tỉnh tổ chức. Nhiều ý kiến đề xuất nên thành lập Đoàn nghệ thuật truyền thống Huế để bảo tồn nghệ thuật truyền thống cung đình Huế, trong đó có bộ môn Tuồng. Nghệ sĩ La Cẩm Vân từ đó càng có niềm tin vào việc phục hồi nghệ thuật cung đình Huế. Chị dốc sức phục dựng 10 tiết mục lễ nhạc cung đình, 26 tiết mục ca nhạc lý Huế, 7 vở tuồng dài, 18 trích đoạn tuồng (tuồng đồ, tuồng sử, tuồng pho, tuồng ngự)… Chị lại mê say dạy nghề cho thế hệ trẻ, bởi chị như muốn bù đắp: Thế hệ sau có thiệt thòi hơn trước, bởi khi các em quyết định trở thành “nghệ sĩ cung đình”, cũng là lúc nghệ thuật cung đình dường như chỉ còn là di sản cần được bảo lưu… Chị còn nghiên cứu truyền đạt thêm cho học trò về lịch sử múa cung đình, vũ đạo múa, vũ đạo tuồng… Đầu năm 2016, chị được Nhà nước truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân.


Liên tục các kỳ Festival 2002, 2004, 2006… chương trình “Âm sắc cung đình” của chị được liên tục phục dựng, thu hút sự tán thưởng của công chúng. Và cũng từ đó, những bước chân đại sứ văn hóa của chị đã in dấu trên các bước đường lưu diễn ở Nhật, Pháp, Nga, Thụy Sỹ, Hàn Quốc, Bỉ, Tây Ban Nha…

Cuối đời, nghệ sĩ La Cẩm Vân vẫn nuôi khát vọng sưu tầm và hệ thống hóa lại các bài bản nhạc cung đình Huế, và bỏ ra nhiều năm cho công việc này.

Có một câu chuyện về La Cẩm Vân cần kể lại. Trong một chuyến lưu diễn thời bao cấp chị phải mang theo đứa con thứ hai mới mấy tháng tuổi. Đứa con yếu đuối không chịu nổi sự dịch chuyển mưa nắng liên miên, lâm bệnh, khi đoàn đưa cháu đến bệnh viện thì đã trễ. Những ngày đó, chị diễn vai Cúc Hoa, đêm nào cũng khóc đau đớn trên sân khấu. Cho đến một ngày chị không còn khóc được nữa, người sững sờ, có khi chở một bao gạo thời đó quý giá vô cùng, vậy mà đánh rơi trên đường lúc nào chẳng hay…

Những chiếc lá đã rụng, những câu chuyện cũ đã qua, dòng sông Hương vẫn mải miết trôi. Bây giờ chúng ta vẫn gặp trên sân khấu những người con của gia đình họ La, như nghệ sĩ La Thanh Hùng vừa được phong Nghệ sĩ Ưu tú. Từng đêm diễn trên sân khấu, giọng ca tuồng của La Hùng vẫn ngàn ngạt dòng máu cha ông trong huyết quản. Những lúc ấy, như thể đang nhìn thấy cụ La Cháu đang ngồi dưới kia, tay vuốt râu gật gù, và chị La Cẩm Vân đang nở nụ cười rất đẹp bên cánh gà. Lúc đó cũng chừng mười hai giờ khuya…

T.N.Q  
(SHSDB20/04-2016)




 

Các bài mới
Các bài đã đăng
Trang sổ bị xé (13/05/2016)