50 năm ngày mất Giáo sư Đặng Văn Ngữ
ĐẶNG NHẬT MINH
Vậy là đã 50 năm từ ngày cha tôi đi vào cõi Vĩnh hằng. Hình ảnh cuối cùng mà tôi còn giữ lại trong ký ức về cha tôi đó là một buổi chiều giáp Tết Đinh Mùi, cách đây đã 50 năm. Trước khi lên đường đi vào Nam cha tôi hẹn đến thăm bố vợ tôi, Luật sư Nguyễn Quế. Sau bữa cơm đạm bạc với gia đình bên vợ tôi, cha tôi chia tay với tất cả mọi người rồi bế cháu Đặng Nhật Tân, đứa cháu đích tôn duy nhất từ gác hai xuống đến tận cửa xe com-măng- ca đỗ bên đường, trước khi trao nó lại cho tôi. Rồi cha tôi bước lên xe, ngồi vào ghế trước. Chiếc xe nổ máy chuyển bánh… Tôi bế con nhìn hút theo hai chiếc đèn đỏ sau xe cho đến khi chiếc xe đi khuất vào phố đêm. Tôi không hề có linh cảm rằng đó là cuộc chia tay cuối cùng với cha mình. Cha tôi thường hay đi công tác xa về các địa phương để chỉ đạo công tác phòng chống sốt rét. Những cuộc ra đi như vậy đã trở thành quá quen thuộc với gia đình chúng tôi. Nhưng hai tháng sau, tôi và em gái tôi là Đặng Nguyệt Ánh được bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng Bộ Y tế, báo tin cha tôi đã hy sinh trong một trận bom B52 vào hồi 2 giò trưa ngày 1 tháng 4 năm 1967 tại chiến khu Trị Thiên-Huế. Tôi không còn nhớ đã đón nhận cái tin sửng sốt kia như thế nào. Chỉ biết rằng từ giây phút đó cho đến tân bây giờ tôi vẫn còn bàng hoàng nghe văng vẳng bên tai câu nói của bác Thạch: Các cháu hãy can đảm đón nhận cái tin đau đớn này: Ba các cháu đã hy sinh… Báo xong cái tin đau đớn đó, ông lặng đi giây lát rồi nói tiếp : Đến bây giờ bác mới hiểu hết ba các cháu. Không lâu sau bác sĩ Phạm Ngọc Thạch cũng lên đường vào Nam. Tôi không biết cuộc ra đi đó của ông có phải do yêu cầu của chiến trường không, hay còn vì một lý do nào đó sau cái chết của cha tôi.
Trước khi cha tôi lên đường sang Nhật Bản nghiên cứu về y khoa, cha tôi đã đưa mẹ và ba anh em chúng tôi từ Hà Nội về Huế gửi cho ông bà nội chúng tôi. Suốt 7 năm dài mẹ tôi đã phải chịu cảnh đơn chiếc, hầu hạ chăm sóc bố mẹ chồng, hy sinh tất cả vì sự nghiệp khoa học của chồng. Cho đến năm 1949 cha tôi về nước tham gia kháng chiến, mẹ tôi và ba anh em chúng tôi đã làm một cuộc trường chinh suốt 3 tháng trời đi bộ từ Huế ra Khu 4, rồi từ Khu 4 lên Việt Bắc để sum họp với cha tôi. Nhưng cuộc hội ngộ ấy kéo dài vẻn vẹn chưa đầy 4 năm thì mẹ tôi qua đời sau một cơn tai biến.
Những năm sau hòa bình lập lại, công cuộc tiêu diệt sốt rét trên miền Bắc là công việc chiếm nhiều sức lực và trí tuệ nhất của cha tôi. Đó là lẽ sống và là niềm say mê lớn nhất của cha tôi khi không còn mẹ tôi ở bên cạnh. Tôi nhớ có lần cha tôi bỏ ra một ngày chủ nhật để ngồi viết một truyện thiếu nhi nhằm giáo dục cách phòng chống sốt rét, rồi đọc cho tôi nghe. Một truyện ngắn giản dị có nhân vật chính là hai ông cháu. Có lẽ đó là truyện ngắn duy nhất mà ông viết trong đời. Cha tôi đã làm tất cả những gì có thể làm chỉ vì một mục tiêu duy nhất là tiêu diệt bệnh sốt rét và ông đã làm được điều đó trên toàn miền Bắc nước ta trong một thời gian dài. Có một vật có thể nói là gần gũi nhất với cha tôi đó là chiếc kính hiển vi. Nó có mặt thường xuyên ngay cả trong phòng ngủ của cha tôi ở khu tập thể của Viện Sốt rét tại Mễ Trì. Trước đó khi còn ở trong căn hộ được phân trên phố Hàn Thuyên, cứ cơm tối xong là cha tôi đi bộ vào Trường Y trên đường Lê Thánh Tông, cách nhà chứng 300 mét, làm việc trong phòng thí nghiệm cho đến 10 giờ tối. Ngày cha tôi trở về nước tham gia kháng chiến, suốt chặng đường dài từ Nhật Bản qua Thái Lan, từ Thái Lan đi bộ băng qua Lào về Nghệ An, rồi từ Nghệ An lên Việt Bắc, trong hành trang của cha tôi ngoài hai bộ quần áo kaki có một lọ đựng một một thứ nấm có khả năng tiết ra chất kháng sinh, mà từ đó cha tôi đã chiết xuất ra nước lọc Penicilline để cứu chữa các vết thương cho bộ đội. Trong hành trang của cha tôi mang từ Nhật về còn có một chiếc kính hiển vi nho nhỏ chỉ bằng một gang tay nhưng có đủ cả ống kính, gương phản chiếu và bộ phận điều chỉnh tiêu cự. Đó là món quà cha tôi đem về cho tôi. Tôi biết cha tôi muốn con mình sau này đi vào con đường nghiên cứu y học nối nghiệp cha tôi. Nhưng rồi ý nguyện đó đã không thành. Sau khi học xong phổ thông ở Quế Lâm rồi Nam Ninh bên Trung Quốc, tôi được nhà trường phân công sang Liên Xô học tiếng Nga để trở về nước làm phiên dịch. Mười chín tuổi tôi đã là một cán bộ phiên dịch Nga văn và điều đó làm cha tôi hẳn thất vọng lắm. Nhưng không bao giờ tôi thấy cha tôi nói ra điều đó. Trong xã hội ngày ấy ai làm nghề gì, học ngành gì đều phải theo sự phân công của tổ chức. Cha tôi biết vậy nên không có ý kiến gì. Sau này hai em gái tôi học xong phổ thông được nhà trường phân công học ngành gì cha tôi cũng không can thiệp. Đến năm 1965 sau khi làm việc 8 năm trong ngành điện ảnh (dịch lời thoại trong các phim Xô viết) không còn cách gì để thoát khỏi cái nghề phiên dịch tôi bèn thử sức mình trong lĩnh vực sáng tác. Tôi bắt đầu làm bộ phim tài liệu dài 50 phút có tên: “Theo chân người địa chất” với tư cách là đạo diễn. Làm xong tôi hồi hộp mời cha tôi xem. Xem xong cha tôi nói: “Thôi được. Con muốn làm đạo diễn điện ảnh cũng được. Nhưng nên làm những phim tài liệu khoa học”. Cha tôi biết rằng năm đó tôi đã 27 tuổi, nếu không theo được ngành Y thì cũng không thể nào đeo đuổi cái nghề phiên dịch này mãi được. Bộ phim “Theo chân người địa chất” là bộ phim duy nhất của tôi mà cha tôi có dịp xem. Dự buổi chiếu hôm đó còn có Thứ trưởng Bộ Văn hóa Nguyễn Đức Quỳ. Cha tôi và ông Quỳ quen nhau từ năm 1949 khi cha tôi từ Nhật Bản về Thái Lan để bắt liên lạc với Phòng Thông tin của Chính phủ ta ở Bangkok mà ông Quỳ là Trưởng Đại diện. Đó là buổi chiếu phim mà suốt đời tôi không bao giờ quên.
Niềm say mê lớn nhất của cha tôi là nghiên cứu khoa học và phòng thí nghiệm là thánh đường. Kể cả những lúc làm việc một mình trong phòng thí nghiệm cha tôi cũng đeo cravatte chỉnh tề. Nhưng không phải vì vậy mà cha tôi không quan tâm đến những chuyện đời thường của những người sống quanh mình. Nhiều năm liền cha tôi là Thư ký Công đoàn của Trường Đại học Y Hà Nội. Một thời gian cha tôi là Chủ tịch Ban liên lạc Hội đồng hương Thừa Thiên-Huế ở Hà Nội. Thú vui giải trí mà cha tôi ưa thích là xem bóng đá. Từ ngày cậu tôi - Trung tướng Cao Văn Khánh (chồng của dì tôi bác sĩ Nguyễn Ngọc Toản) chuyển sang phụ trách Thể dục Thể thao trong Quân đội, cha tôi được ông biếu cho một chiếc vé xem thường xuyên tại sân vận động Hàng Đẫy. Cha tôi không vắng mặt bất kỳ trận đá bóng quan trọng nào đặc biệt các trận có đội Thể công. Cha tôi ít khi xem phim, xem kịch. Thời giờ rỗi rãi ông chỉ thích nghe ca Huế qua đài đặc biệt với giọng ngâm của nghệ sĩ Châu Loan. Những lúc ấy tôi biết cha tôi rất nhớ Huế, nơi có bà nội tôi lúc đó đã ở cái tuổi gần đất xa trời. Kể từ ngày cha tôi sang Nhật cho đến khi về lại Hà Nội tổng cộng cha tôi đã xa Huế hơn 20 năm. Trong chuyến đi vào chiến trường năm ấy ngoài việc nghiên cứu vắc xin chống sốt rét cho bộ đội, tôi biết cha tôi còn ấp ủ một hy vọng nữa là được gặp lại bà nội tôi. Bà tôi chắc cũng mong điều đó nên cố sống để chờ ngày gặp con. Nhưng rồi không gặp được nên bà tôi cũng ra đi ngay sau khi cha tôi mất chỉ mấy tháng. Tại nơi tập trung ở Hòa Bình để luyện tập trước khi vào chiến trường, cha tôi viết thư về dặn vợ chồng tôi:
“Thỉnh thoảng các con xuống Viện Sốt rét, vào căn phòng của Ba, lau chùi dọn dẹp trong phòng. Đồ đạc cứ để nguyên như cũ… như khi Ba đi công tác xa”. Cuối thư cha tôi còn dặn thêm: “Có đôi bít tất để trong tủ Ba chưa kịp giặt, các con giặt giùm”. Căn phòng ở của cha tôi tại Viện Sốt rét là một căn phòng rộng 15m2 ở tầng hai khu tập thể của Viện. Giữa phòng kê một chiếc giường đệm cỏ phủ khăn trải giường trắng, cạnh đó một bộ xa lông gỗ gồm hai ghế và một bàn tròn đặt gần cửa sổ. Ở một góc là chiếc bàn làm việc với sách vở và chiếc kính hiển vi, một góc khác là chiếc tủ đụng quần áo. Đồ đạc riêng đáng giá nhất có lẽ là chiếc đài điện tử nhãn hiệu TESLA của Tiệp Khắc mầu cánh dán. Đó là toàn bộ tài sản riêng của cha tôi. Tiếc rằng năm tháng sau khi cha tôi mất thì căn phòng đó cũng bị bom Mỹ đánh sập không còn lại bất cứ kỷ vật gì. Gần đây Viện Sốt rét Ký sinh trùng và côn trùng đã phục hồi lại nguyên trạng căn phòng đó với đủ đồ đạc bên trong như hồi cha tôi còn sống. Khác chăng là có thêm chiếc bàn thờ có di ảnh cha tôi mà mỗi rằm, mồng một hay ngày giỗ cha tôi các anh chị em trong Viện vẫn thường hương khói. Mỗi lần đọc lại bức thư cuối cùng của cha tôi, tôi thấy ông không hề linh cảm rằng mình ra đi vĩnh viễn, còn đối với chúng tôi con cái trong gia đình thì cho đến bây giờ cha tôi vẫn còn đó, đang đi công tác xa… Làm gì, ở đâu, chúng tôi đều cảm thấy ông luôn ở bên cạnh. Năm 1991 tôi có dịp đến Nhật Bản. Theo lời giới thiệu của GS. Nguyễn Lân Dũng, tôi liên lạc được với bà Seino, người trước kia có một thời gian làm phụ tá cho cha tôi tại phòng thí nghiệm Trường Đại học Y khoa Tokyo. Bà cùng chồng mình đón tôi như người thân trong gia đình, đưa tôi đi thăm lại những nơi cha tôi từng sống và làm việc. Tại Đông kinh học xá nơi các sinh viên nước ngoài trước đây cư trú, người ta cho tôi biết địa chỉ của một người Việt Nam trước kia cùng sống chung với cha tôi trong một căn phòng. Người đó là kỹ sư Lê Văn Quý, hiện sống ở thành phố Atami cách Tokyo hơn 100 km. Tôi liền đến thăm bác Quý và được bác kể về quãng thời gian cùng sống với cha tôi tại Nhật Bản.
Bác Quý chỉ cho tôi xem một tấm bằng lồng trong khung kính treo trang trọng trên bức tường giữa phòng khách rồi nói: “Đây là kỷ niệm quý giá nhất của bác trên đất Nhật. Đó là tấm bằng của Thị trưởng thành phố Tokyo trao cho bác cuối năm 1945 ghi nhận công lao vì đã cứu giúp người Nhật trong thời gian chiến tranh. Ba cháu cũng có một tấm bằng như thế này. Hồi chiến tranh Tokyo bị ném bom dữ lắm. Ba cháu đã tập hợp các sinh viên Việt Nam và nước ngoài ở Đông kinh học xá thành lập các đội cứu thương để cứu chữa cho nhân dân trong khu phố. Ba cháu hướng dẫn nghiệp vụ cấp cứu cho mọi người và đã cứu chữa cho biết bao nhiêu trường hợp bị thương, đặc biệt các ca bị bỏng vì bom. Ba cháu chữa các vết bỏng giỏi lắm. Sau khi chiến tranh kết thúc Tòa thị chính Tokyo đã tặng cho mỗi người trong đội cứu thương một tấm bằng như thế này để ghi công”. Ấn tượng bao trùm nhất của bác Quý về cha tôi là suốt ngày ông chỉ biết học, miệt mài nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, ngoài ra không quan tâm đến chuyện gì khác. Tuy vậy khi nước nhà giành được Độc lập thì cha tôi luôn theo dõi tin tức về cuộc kháng chiến đang diễn ra trong nước rồi thông tin lại cho anh chị em sinh viên Việt Nam. Cha tôi được bầu làm Chủ tịch đầu tiên của Hội người Việt Nam tại Nhật Bản. Chính ngọn lửa của lòng yêu nước ấy đã thôi thúc cha tôi từ giã nước Nhật, trở về với cuộc Kháng chiến thần thánh của dân tộc. Bà Seino còn liên hệ cho tôi được gặp Giáo sư Tomio Takeuchi. Giám đốc Viện Hóa vi sinh Tokyo (Institute of Microbial Chemistry). Trên đường đi tới Viện bà Seino cho biết Giáo sư Tomio là một trong những nhà bác học nổi tiếng của Nhật Bản. Người Nhật thường gọi họ là những người bất tử vì được mời làm việc cho đến trọn đời, không phải về hưu. Giáo sư hẹn tiếp tôi trong 30 phút vì ông còn bận lên lớp. Ông nói với tôi: Tôi có làm việc chung với cha anh tại Trường Đại học Y khoa Tokyo trong một thời gian. Cha anh lúc đó là đàn anh của tôi. Các công trình nghiên cứu, các bài báo đăng trên các tạp chí Y khoa chúng tôi đều viết chung và tên cha anh bao giờ cũng đứng trước tên tôi. Con đường khoa học của cha anh lúc bấy giờ đang rộng mở, nhất là sau khi ông phát hiện lần đầu tiên tại Nhật một giống nấm có khả năng tiết ra chất kháng sinh Penicilline. Rồi nước Nhật bại trận. Công cuộc nghiên cứu gặp nhiều khó khăn. Tôi biết người Mỹ đã nhiều lần tìm đến gặp cha anh để mời làm việc. Nhưng cha anh đã từ chối để trở về nước. Rồi giáo sư sai người đem ra những tập san Y học chỉ cho tôi xem những bài viết mà cha tôi và ông cùng đứng tên chung. Chia tay giáo sư Tomio trên đường về tôi thầm nghĩ: Nếu ngày đó cha tôi ở lại Nhật để tiếp tục theo đuổi con đường nghiên cứu khoa học, hẳn ông cũng sẽ trở thành một nhà bác học lớn như Giáo sư Tomio Takeuchi, hẳn ông sẽ còn có những đóng góp giá trị cho nền y học của nhân loại, nhưng ông sẽ không được chia sẻ những vinh quang cũng như những khổ đau của đất nước mình, của dân tộc mình. Trong con người của cha tôi niềm say mê khoa học và lòng yêu nước là những phẩm chất không thể tách rời. Thật vậy, cha tôi đã chia sẻ đến tận cùng số phận của đất nước, của nhân dân mình cho đến khi ông ngã xuống trên rừng Trường Sơn trong một trận bom B52 như bất cứ một người lính nào đã ngã xuống trên suốt dải đất này vì sự nghiệp cao cả và thiêng liêng của Tổ quốc.
Tấm biển trên di hài GS. Đặng Văn Ngữ |
Cha tôi nằm trên Trường Sơn lặng lẽ suốt hai mươi năm cho đến khi tình cờ một người tiều phu phát hiện được mộ ông như mộ một người lính vô danh. Trong gói vải dù bọc một ít di hài của ông chỉ có một tấm biển nhôm khắc vẻn vẹn mấy chữ: Đặng Văn Ngữ. 1/4/1967. Người ta nghĩ rằng đó là hài cốt của một chiến sĩ nào đó chưa rõ tông tích nên đã quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ xã Phong Mỹ, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Cha tôi còn nằm đó thêm 5 năm nữa cho đến khi anh em chúng tôi dò tìm ra được. Suốt 5 năm đó người chăm sóc hương khói cho cha tôi là các thầy cô giáo cùng các em học sinh Trường Tiểu học xã Phong Mỹ. Ngôi trường nằm ngay cạnh nghĩa trang chỉ cách một con đường. Hàng năm cứ đến ngày Thương binh liệt sĩ, ngày Quốc khánh, ngày Tết thầy trò của trường sang quét dọn nghĩa trang, cắm những bó hoa và thắp hương trên những ngôi mộ. Cả trường và cả địa phương đều không biết đấy là mộ của ai. Cái đêm gia đình tôi ngồi ở nghĩa trang chờ sáng để đưa hài cốt của cha tôi về chôn cất trong nghĩa trang Đặng tộc trên núi Ngự Bình là một đêm thật khó quên. Các thầy cô giáo của trường đã thức suốt đêm cùng chúng tôi túc trực bên ngôi mộ mà cho đến bây giờ họ mới biết đó là mộ của một nhà khoa học nổi tiếng đã ngã xuống trên quê hương họ. Năm giờ sáng hôm sau các em học sinh toàn trường đã tề tựu đông đủ, đứng xếp hàng dọc hai bên đường từ cổng nghĩa trang cho đến đầu làng để tiễn biệt linh hồn cha tôi về với những người thân. Giây phút đó thật linh thiêng. Bất giác tôi nhớ tới một câu trong ca khúc của Trịnh Công Sơn: “Người chết nối linh thiêng vào đời….”.
Cha tôi ra đi cách đây đã 50 năm. Thời gian càng làm chúng tôi nhận thức rõ hơn mọi chiều sâu xa của mất mát lớn lao này. Không chỉ đối với chúng tôi, con cháu trong gia đình mà còn đối với nền Y học nói chung. Những gì ông cống hiến cho đất nước mới chỉ là một phần rất nhỏ trong kiến thức bao la mà ông tích lũy được trong quãng đời nghiên khoa học của mình trên các lĩnh vực ký sinh trùng, côn trùng, vi trùng, các bệnh truyền nhiễm và nhất là trong lĩnh vực còn mới mẻ ở ta hiện nay: lĩnh vực Hóa vi sinh. Ông còn có thể làm được rất nhiều nữa cho đất nước. Tiếc rằng ông đã ra đi ở tuổi 57!
Lòng thương yêu vô bờ bến đối với con người, sự gắn bó máu thịt với số phận của Đất nước, của Nhân dân… là những di sản tinh thần mà cha tôi đã để lại cho con cháu trong gia đình.
Đ.N.M
(SHSDB25/06-2017)