Tạp chí Sông Hương - Số 432 (T.02-25)
50 năm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế
09:34 | 28/02/2025


PHAN THANH HẢI

50 năm bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế
Ảnh: tư liệu

1. Lời dẫn

Huế là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử phát triển đô thị Việt Nam: từ một vùng đất biên viễn nổi danh là xứ “Ô Châu ác địa” chuyển đổi thành một trung tâm đô thị và văn minh mới của người Việt trên con đường mở đất về phương Nam từ thế kỷ XVII - XVIII, trở thành kinh đô của đất nước thống nhất trong suốt thời Nguyễn thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, rồi thành cố đô cuối cùng còn được bảo lưu nguyên vẹn nhất tại Việt Nam. Ngày nay, Cố đô Huế chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam, đồng thời là một trong những đô thị có quỹ kiến trúc di sản giàu có nhất không chỉ trong phạm vi khu vực Đông Nam Á và Đông Á.

Lịch sử vùng đất Huế đã tạo ra những di sản văn hóa có giá trị tiêu biểu, độc đáo, song do sự tàn phá của chiến tranh, thiên tai, thời gian và những biến động của lịch sử đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các loại hình di sản văn hóa vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu. Trong 50 năm qua (1975 - 2025), Đảng, Chính phủ, các Bộ, ngành trung ương cùng các tổ chức quốc tế, những người yêu Huế trên toàn thế giới đã luôn ủng hộ và sát cánh cùng tỉnh Thừa Thiên Huế trong công cuộc bảo vệ, trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế. Đặc biệt, việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa đã luôn gắn chặt với quá trình khai thác, phát huy hiệu quả và tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và khu vực miền Trung, trọng tâm là kinh tế du lịch - dịch vụ.

2. Nỗ lực bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Cố đô Huế

Di sản văn hóa Cố đô Huế là sự đan xen, hòa quyện giữa nhiều sắc thái văn hóa đậm đà với vẻ đẹp thơ mộng của sông Hương, núi Ngự Bình, phá Tam Giang, vịnh Lăng Cô, vườn quốc gia Bạch Mã cùng nhiều cảnh quan thiên nhiên kỳ vĩ khác đã làm nên đặc trưng, phong vị riêng, không nơi nào có được. Đồng thời, Huế là sự mẫu mực kết hợp hài hòa giữa các yếu tố con người, kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên, là điển hình của loại hình kiến trúc cảnh vật hóa - một loại hình kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc và giàu tính nhân văn. Trải qua thời gian, những đặc trưng đó được kết tinh sâu lắng trong hệ thống giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế, từ kiến trúc, âm nhạc, tín ngưỡng, lễ nghi, trang phục đến ẩm thực, ngành nghề thủ công truyền thống… và không ngừng tỏa sáng, trở thành niềm tự hào của văn hóa Việt Nam và được thế giới công nhận, tôn vinh. Vào năm 1981, khi đến khảo sát Cố đô Huế, Tổng Giám đốc UNESCO bấy giờ là ngài Amadou - Mahtar M’Bow đã nhận định: “Huế không chỉ là một mẫu mực về kiến trúc mà còn là một cao điểm về tinh thần và một trung tâm văn hóa sôi động - ở đó đạo Phật và đạo Khổng đã thấm sâu, hòa nhuyễn vào truyền thống địa phương, nuôi dưỡng một tư tưởng tôn giáo, triết học và đạo lý hết sức độc đáo”1.

Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất (1975), tỉnh Thừa Thiên Huế đã nhận thức sâu sắc vấn đề bảo tồn di sản văn hóa của dân tộc, xem đây là nguồn lực trọng yếu để nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, phát triển kinh tế xã hội và mở rộng cơ hội giao lưu, hợp tác quốc tế. Trên cơ sở này, tỉnh đã ban hành nhiều quyết định, kế hoạch và dự án để bảo vệ những di sản văn hóa tiêu biểu, tập trung xây dựng hồ sơ đề nghị Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng các công trình kiến trúc đặc sắc là di tích cấp quốc gia. Ngoài ra, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 1046/ QĐ-UBND ngày 08/10/1993 kèm theo Danh mục 153 di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng được bảo vệ. Sau đó, Luật Di sản văn hóa được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2001 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2002. Luật Di sản văn hóa ra đời đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế.

Thừa Thiên Huế có thành phố Huế là đô thị loại I đầu tiên của Việt Nam (từ năm 2005), các di sản quan trọng nhất phần lớn tập trung ở thành phố Huế và vùng phụ cận, dọc theo dòng sông Hương từ thượng nguồn đến cửa biển Thuận An. Di sản đô thị gắn liền với các di sản văn hóa, tự nhiên và đã được hình thành, phát triển qua hàng trăm năm lịch sử, tương ứng với thời kỳ Huế đóng vai trò là thủ phủ Đàng Trong (1636 - 1775), rồi kinh đô của 2 triều đại Tây Sơn và nhà Nguyễn (1788 - 1945). Đến nay, tỉnh Thừa Thiên Huế đã có gần 1000 di tích, địa điểm được kiểm kê, lập hồ sơ. Trong đó có 08 di sản văn hóa đã được UNESCO vinh danh, với đủ cả 3 loại hình: Quần thể Di tích Cố đô Huế (Di sản vật thể, 1993); Nhã nhạc - Âm nhạc cung đình Việt Nam (Di sản phi vật thể, 2003), Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ (Di sản phi vật thể, 2016), Nghệ thuật Bài Chòi Trung Bộ (Di sản phi vật thể, 2017); Mộc bản triều Nguyễn (Di sản tư liệu, 2009), Châu bản triều Nguyễn (Di sản tư liệu, 2014), Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (Di sản tư liệu, 2016), Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng Cung Huế (Di sản tư liệu, 2024) và 193 di tích được xếp hạng (3 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 89 di tích cấp quốc gia và 101 di tích cấp tỉnh). Đặc biệt hiện nay, di sản văn hóa Cố đô Huế trở thành một kênh ngoại giao văn hóa đặc sắc, là nhịp cầu nối hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy các mối quan hệ bang giao, hợp tác hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam với bạn bè quốc tế. Do vậy, khu di sản Huế là địa điểm thường xuyên đón tiếp các nhà lãnh đạo, các nguyên thủ quốc gia, các đối tác trong và ngoài nước mỗi khi đến thăm Huế và Việt Nam, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp sâu đậm trong lòng bạn bè trong nước và quốc tế.

Ca Huế đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia vào năm 2015, tạo tiền đề tiếp tục xây dựng hồ sơ di sản nghệ thuật Ca Huế đệ trình UNESCO đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể Đại diện. Dệt Dèng của dân tộc Tà Ôi (2016) và lễ hội truyền thống ADa Koonh (Mừng lúa mới) của người Pa Cô (2019) ở huyện A Lưới, Tri thức may, mặc áo dài Huế, Lễ hội truyền thống điện Huệ Nam và Nghề thủ công truyền thống làm bún Vân Cù (2024) cũng đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Trong vài năm trở lại đây, Huế đã phát động và đẩy mạnh việc gìn giữ và phục hưng áo dài truyền thống (bao gồm cả áo dài nam và áo dài nữ) không chỉ trong cộng đồng nhân dân mà còn cả ở khối cơ quan nhà nước. Đặc biệt ngày 29/3/2023, Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã phê duyệt đề án “Huế - Kinh đô Áo dài”. Một trong những mục tiêu quan trọng của đề án này là bảo tồn và phát huy giá trị Tri thức may, mặc áo dài Huế. Đây là tiền đề để triển khai có hiệu quả hoạt động quảng bá, tôn vinh áo dài Huế, thúc đẩy kinh tế, du lịch phát triển, khẳng định áo dài Huế trong cộng đồng quốc tế, hướng đến phát triển thương hiệu Huế - Kinh đô Áo dài. Đồng thời, lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và lãnh đạo một số sở, ngành, đơn vị trên địa bàn đã luôn nêu gương khi mặc áo dài tham dự các lễ hội, sự kiện văn hóa, nghệ thuật và một số nghi lễ ngoại giao, tạo nên những hình ảnh rất đẹp và đầy bản sắc. Sau một quá trình xây dựng hồ sơ hết sức khoa học, công phu, di sản Tri thức may, mặc áo dài Huế đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia theo Quyết định số 2320/QĐ-BVHTTDL ngày 9/8/2024.

Lễ hội là di sản văn hóa phi vật thể chứa đựng nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, là nhu cầu không thể thiếu trong sinh hoạt đời sống của nhân dân. Thời gian qua, Thừa Thiên Huế đã đề ra những giải pháp thiết thực để triển khai có hiệu quả công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị hệ thống lễ hội trong bối cảnh xã hội đương đại. Hiện nay, nhiều lễ hội đã trở thành những sản phẩm du lịch đặc trưng, riêng có để thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, trải nghiệm. Theo số liệu điều tra thống kê của chúng tôi, Thừa Thiên Huế hiện có 520 lễ hội đang được duy trì và thực hành trong đời sống cộng đồng; trong đó loại hình lễ hội truyền thống có 472 lễ hội, lễ hội văn hóa có 23 lễ hội, lễ hội ngành nghề có 20 lễ hội, lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài có 5 lễ hội.

Việc xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân Nhân dân”, “Nghệ nhân Ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể ở Thừa Thiên Huế được triển khai có hiệu quả. Hiện nay đã có 6 nghệ nhân được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân và 20 nghệ nhân được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú. Đây là hành động thiết thực để ghi nhận, biểu dương và tôn vinh công lao đóng góp của các nghệ nhân đã và đang cống hiến tài năng, sức lực cho việc khôi phục, duy trì, sáng tạo và phát triển di sản văn hóa các dân tộc thiểu số ở Thừa Thiên Huế.

Cách đây 50 năm, cùng với hậu quả nặng nề của chiến tranh và hoàn cảnh khó khăn của đất nước, công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế gặp muôn vàn khó khăn, thách thức. Tại thời điểm đó, các di tích Huế bị tàn phá và xuống cấp nghiêm trọng, toàn bộ khu vực Tử Cấm thành gần như bị hư hại hoàn toàn. Khu vực Hoàng thành chỉ còn lại 80 công trình so với 147 công trình kiến trúc nguyên thủy. Khu vực Kinh thành chỉ còn 97 công trình trong tình trạng hư hỏng nặng trong tổng số 306 công trình, lăng vua Gia Long có 44 công trình hiện còn 20 công trình, lăng vua Minh Mạng có 40 công trình hiện còn 21 công trình, lăng vua Thiệu Trị có 40 công trình hiện còn 19 công trình, lăng vua Tự Đức có 40 công trình hiện còn 19 công trình... Toàn bộ Quần thể Di tích Cố đô Huế sau chiến tranh còn khoảng 300 công trình lớn nhỏ, hầu hết đều bị hư hỏng ở những mức độ khác nhau, nhiều công trình xuống cấp nghiêm trọng. Nhờ nhận được sự quan tâm đặc biệt từ các Bộ, ngành trung ương và sự quyết tâm của các cấp lãnh đạo tỉnh, hàng trăm hạng mục kiến trúc cảnh quan được tiến hành tu bổ, trùng tu, tôn tạo.

Từ năm 1993, sau khi được UNESCO đưa vào Danh mục Di sản văn hóa thế giới, công tác bảo tồn, tu bổ đã được tập trung triển khai và thu được những kết quả tốt, diện mạo Quần thể Di tích Cố đô Huế ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực, vượt qua giai đoạn “cứu nguy khẩn cấp” để chuyển sang giai đoạn “ổn định và phát triển bền vững”. Đến nay, riêng công tác bảo tồn, trùng tu di tích đạt nhiều kết quả quan trọng, nhiều công trình di tích tiêu biểu đã được phục hồi như: Ngọ Môn, Triệu Miếu, cụm di tích Thế Miếu - Hiển Lâm Các, cung Diên Thọ, Duyệt Thị Đường, cung Trường Sanh, vườn Thiệu Phương, hệ thống trường lang Tử Cấm thành, điện Thái Hòa, điện Kiến Trung (thuộc khu vực Đại Nội); tổng thể chùa Thiên Mụ; điện Hòn Chén; điện Minh Thành, điện Gia Thành, sân tế, nhà bia (lăng vua Gia Long); Minh Lâu, Điện Sùng Ân và các công trình phối thuộc (lăng vua Minh Mạng); điện Hòa Khiêm, điện Lương Khiêm, Minh Khiêm Đường và tổng thể khu vực lăng mộ, hạ tầng cảnh quan (lăng vua Tự Đức); tổng thể lăng vua Dục Đức, lăng Đồng Khánh, lăng Kiên Thái Vương; tổng thể lăng vua Khải Định... và hiện đang tiếp tục trùng tu phục hồi nhiều công trình quan trọng khác như điện Cần Chánh, Thái Miếu, Hưng Miếu, đàn Nam Giao, lăng vua Thiệu Trị... Quy trình tu bổ các di tích Huế đều đảm bảo các nguyên tắc khoa học về bảo tồn của quốc gia và thỏa mãn các điều luật của Hiến chương, Công ước quốc tế mà Chính phủ Việt Nam đã công nhận và tham gia, được các nhà khoa học trong nước và quốc tế đánh giá cao, đem lại hiệu quả tích cực về mặt kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu phục hồi một số lễ hội cung đình quan trọng nhất của triều Nguyễn như lễ Tế Giao, lễ tế Xã Tắc, lễ Truyền Lô - Vinh quy bái tổ, lễ hội thi Tiến sĩ Võ... đã đạt được những thành công nhất định, góp phần quan trọng để phát triển du lịch, dịch vụ.

Trong thời gian qua, nhiều công trình nghiên cứu về triều đại Tây Sơn được triển khai trong giới sử học Thừa Thiên Huế. Cuối năm 1977, đã phát hiện và công bố về địa điểm Núi Bân, nơi vua Quang Trung làm lễ lên ngôi và xuất quân đánh giặc Thanh năm 1788. Đến năm 2008, công trình Khu tưởng niệm anh hùng dân tộc Quang Trung tại núi Bân được khởi công xây dựng. Sau hai năm xây dựng, ngày 9/1/2010, công trình tượng đài Quang Trung ở núi Bân đã được khánh thành. Từ đó, khu vực di tích núi Bân - quảng trường tượng đài Quang Trung đã trở thành một địa chỉ văn hóa mới của Huế, thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan và dâng hương tri ân công đức. Vào năm 2022, Sở Văn hóa và Thể thao phối hợp với Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam triển khai công tác khai quật khảo cổ di tích núi Bân nhằm xác định quy mô, kết cấu nguyên gốc của đàn Nam Giao thời Tây Sơn góp phần bổ sung các cơ sở khoa học quan trọng để xây dựng hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận di tích cấp quốc gia đặc biệt trong thời gian tới.

Nhiều di tích như Nhà lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại 112 Mai Thúc Loan và khu di tích đình làng Dương Nỗ; di tích nhà lưu niệm cụ Phan Bội Châu, di tích về danh tướng Nguyễn Tri Phương, di tích Đại tướng Nguyễn Chí Thanh,… đã được ưu tiên đầu tư trùng tu, tôn tạo và phát huy giá trị. Công tác điều tra, nghiên cứu, sưu tầm và bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể gồm các loại hình nghệ thuật cung đình, nghệ thuật dân gian, lễ hội truyền thống trong những năm qua cũng được chú trọng. Tiếp tục thực hiện tốt các chủ trương đã đề ra về bảo tồn và phát huy giá trị nhà vườn truyền thống Huế đặc trưng trên địa bàn thành phố Huế, ở làng cổ Phước Tích; phát huy du lịch cộng đồng tại Cầu ngói Thanh Toàn, phố cổ Bao Vinh; bảo vệ và phát huy giá trị cảnh quan thiên nhiên, vịnh biển đẹp thế giới Lăng Cô, Vườn Quốc gia Bạch Mã...

Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế hiện có 5 bảo tàng công lập (Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Lịch sử, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, Bảo tàng Thiên nhiên khu vực miền Trung tại Huế) và 05 bảo tàng ngoài công lập (Bảo tàng Đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn, Bảo tàng Nghệ thuật thêu XQ, Bảo tàng Gốm cổ Sông Hương, Bảo tàng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Bảo tàng Mỹ thuật Cecile Le Pham). Các bảo tàng này hiện đang lưu giữ nhiều cổ vật, di vật gắn liền với văn hóa cung đình, văn hóa dân gian, về cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lịch sử - văn hóa, các anh hùng, danh nhân tiêu biểu của quê hương đất nước, góp phần bảo quản, trưng bày và tuyên truyền nhằm phát huy giá trị di sản văn hóa.

Công tác quản lý cổ vật, bảo vật quốc gia của Thừa Thiên Huế trong nhiều năm qua luôn được chú trọng quan tâm. Hiện nay, Thừa Thiên Huế có 14 hiện vật, nhóm hiện vật (gồm 41 hiện vật) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là bảo vật Quốc gia, gồm: Cửu vị thần công (09), Cửu đỉnh (09), Sưu tập vạc đồng (10), Ngai vua triều Nguyễn (01), Áo tế giao (01), Bia Khiêm Cung ký (01), Đại Hồng Chung (01), Bệ thờ Vân Trạch Hòa (01), Bia “Ngự kiến Thiên Mụ Tự” (01), Bộ chóp tháp Champa Linh Thái (02), chuông đồng thời Minh Mạng (01), Ngai vua Duy Tân (01), trấn phong thời Minh Mạng (01), đôi rồng thời Thiệu Trị (02).

Trong những năm qua, di sản văn hóa Cố đô Huế đã gắn chặt với việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản, thúc đẩy du lịch phát triển bền vững. Các kỳ Festival Huế (vào năm chẵn, bắt đầu từ năm 2000) và Festival Nghề truyền thống Huế (năm lẻ, bắt đầu từ năm 2005) được tổ chức thành công đã góp phần khẳng định vị trí về chính trị, văn hóa và du lịch, mở rộng quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế nâng cao vị thế văn hóa Việt Nam, văn hóa Huế, tạo động lực phát triển toàn diện kinh tế - xã hội của tỉnh, thu hút nhiều dự án đầu tư về dịch vụ du lịch và trên các lĩnh vực khác.

Cố đô Huế được đánh giá là địa phương còn bảo tồn tốt nhất các giá trị di sản truyền thống của Việt Nam, cả về di sản vật thể, phi vật thể và di sản tư liệu, cảnh quan môi trường, lối sống, trang phục, phong tục tập quán... Đồng thời, biến di sản Huế thành các lợi thế đặc thù cho sự phát triển và đạt nhiều thành tựu từ bảo tồn và phát huy giá trị di sản. Đến nay, Huế đã sở hữu các thương hiệu: “Thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam”, “Thành phố văn hóa ASEAN”, “Thành phố bền vững môi trường ASEAN”, “Thành phố Xanh quốc gia”...

Khai thác du lịch, dịch vụ từ di sản đã đóng vai trò chủ đạo của kinh tế địa phương (kinh tế dịch vụ chiếm từ 51 - 53% GDP, trong đó dịch vụ, du lịch từ di sản chiếm tỷ trọng chính), doanh thu toàn xã hội từ du lịch, dịch vụ dựa trên nền tảng khai thác di sản văn hóa chiếm tỷ trọng cao. Nhiều năm liền, Thừa Thiên Huế luôn được bình chọn là điểm đến an toàn thân thiện của du lịch Việt Nam. Điển hình trong năm 2023, tổng lượt khách du lịch ước đạt 3.175.912 lượt khách, tăng 54,4% so với năm 2022; trong đó có 1.170.236 lượt khách quốc tế và 2.005.676 lượt khách nội địa, khách nội địa chiếm 63,2%. Doanh thu từ du lịch ước đạt 6.605,6 tỷ đồng, đạt mục tiêu năm 2023 đề ra. Trong đó, top 10 thị trường khách đến Huế trong năm 2023 là Đài Loan (chiếm 11% thị phần khách quốc tế), Thái Lan (chiếm 10.5%), Mỹ (chiếm 8.9%), Malaysia (chiếm 8.8%), Pháp (chiếm 8.1%), Anh (chiếm 5.9%), Úc (chiếm 5.15%), Đức (chiếm 5.1%), Tây Ban Nha (chiếm 1.3%), Hàn Quốc (chiếm 3.8%)2.

3. Một số khó khăn trong bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Cố đô Huế

Luôn được xem là một trong những vùng đất bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa di sản, nhưng thực tế hiện nay Huế vẫn đang phải đối mặt với nhiều bất cập, khó khăn, mà cụ thể là:

Thứ nhất, công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển đô thị, công tác quy hoạch và quản lý khai thác di tích đã được quan tâm nhưng vẫn chưa đáp ứng kịp với yêu cầu thực tế đặt ra, một số di tích đã và đang bị xuống cấp, biến dạng hoặc bị bỏ quên nhường chỗ để phát triển đô thị, kinh doanh dịch vụ.

Thứ hai, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa vẫn chưa có sức hút đối với các nhà đầu tư; xã hội hóa về công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa còn có tỉ lệ thấp. Một số cơ chế, quy định pháp luật nhà nước chưa thật sự phù hợp với thực tiễn phát triển của tỉnh. Những tác động tiêu cực do hoạt động của con người gây ra xuất phát từ áp lực của sự phát triển kinh tế, tốc độ đô thị hóa, nhu cầu cuộc sống hiện đại góp phần làm ảnh hưởng đến công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản Cố đô Huế.

Thứ ba, tiến độ triển khai các công trình, dự án vẫn chưa đạt yêu cầu về thời gian, nhiều hạng mục quan trọng, cấp thiết cần được triển khai nhưng do chưa xác định được nguồn vốn nên vẫn chưa được thực hiện một cách kịp thời. Nhu cầu vốn đầu tư cho công tác bảo tồn, tôn tạo di sản văn hóa hiện nay là rất lớn, song khả năng cân đối hằng năm từ ngân sách các cấp còn thấp, đồng thời địa phương không đảm bảo nguồn vốn để trùng tu, bảo tồn kịp thời các công trình xuống cấp bức thiết, đặc biệt các di tích ngoài Quần thể Di tích Cố đô.

Thứ tư, việc khai thác thế mạnh các giá trị của di sản Cố đô Huế để phát triển chưa thực sự đạt được hiệu quả cao nhất, sản phẩm vẫn còn khá nghèo nàn, chưa tạo ra sự tương tác cho du khách để trải nghiệm. Nguồn thu từ các dịch vụ tại các công trình di sản văn hóa chưa cao, thiếu các sản phẩm chủ lực, hàng lưu niệm đặc trưng, phần lớn mới chỉ tập trung vào khai thác các giá trị di sản văn hóa, các công trình kiến trúc ở khu vực Đại Nội, hệ thống lăng tẩm ở Huế và phụ cận cho phát triển du lịch. Ngoài ra, nhiều giá trị di sản văn hóa khác trên địa bàn tỉnh như nhà vườn, phủ đệ, chùa chiền... vẫn chưa được khai thác đưa vào phát triển du lịch hoặc đã đưa vào khai thác nhưng còn ở mức độ thấp, chưa thực sự hấp dẫn, độc đáo.

Thứ năm, về hợp tác quốc tế trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế, mặc dù Huế nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của nhiều chính phủ và các tổ chức quốc tế nhưng so với nhu cầu bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Huế vẫn còn chưa phát huy hết tiềm năng. Các hợp tác quốc tế hiện mới tập trung vào hoạt động tu bổ một số công trình di tích cụ thể, ngắn hạn, kết hợp đào tạo nhân lực tu bổ di tích, cũng có một số dự án hợp tác về lĩnh vực di sản phi vật thể nhưng chưa nhiều, phần lớn chưa xây dựng thành kế hoạch, dự án hợp tác dài hạn, bài bản, mở rộng ra các nội dung khác như hợp tác nghiên cứu về di sản văn hóa Huế một cách toàn diện; vấn đề hợp tác trong việc hồi hương cổ vật và liên kết quảng bá di sản văn hóa Huế ra thế giới hiệu quả còn thấp.

4. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế vì sự phát triển bền vững

Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế thiết nghĩ cần triển khai một số giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục Luật Di sản văn hóa và Nghị định của Chính phủ về bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa để Luật này đi vào đời sống của nhân dân, làm người dân nâng cao ý thức trách nhiệm, tự nguyện, tự giác chấp hành nghiêm túc các quy định của Nhà nước đối với công tác bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế. Từ ngày 1/7/2025, Luật Di sản văn hóa mới sẽ có hiệu lực, do vậy phải đẩy mạnh việc tuyên truyền, phổ biến Luật này đến các tầng lớp nhân dân, để Luật sớm đi vào cuộc sống.

Thứ hai, thiết lập các quy định bảo tồn, phát huy giá trị di tích và các quy định phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung các nguồn lực để trùng tu, phục hồi, và bảo tồn một số công trình kiến trúc trọng điểm trong Quần thể Di tích Cố đô Huế. Thường xuyên kiểm tra, rà soát tình trạng công trình di tích để có biện pháp xử lý phù hợp, nâng cao giá trị và tuổi thọ của công trình. Triển khai hiệu quả các dự án bảo tồn và phát huy hệ thống di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, di tích lịch sử cách mạng, di tích lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật. Triển khai các quy hoạch khảo cổ để bảo vệ, giữ gìn tốt các giá trị văn hóa cho các đời sau, vừa phục vụ kịp thời cho quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và kêu gọi đầu tư. Đối với những công trình khó phục hồi, trùng tu tôn tạo sẽ tiến hành dựng biển giới thiệu về địa điểm.

Thứ ba, động viên, khuyến khích và phát huy vai trò giám sát của xã hội, của cộng đồng. Di sản Huế tồn tại trong đời sống cộng đồng và chỉ có thể được bảo vệ, gìn giữ bởi cộng đồng. Nhân dân là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản một cách bền vững. Bởi vậy, điều quan trọng là phải xây dựng kế hoạch tuyên truyền quảng bá, giới thiệu về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế, qua đó nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ; nâng cao niềm tự hào, vinh dự của người dân, để cả cộng đồng cùng chung tay tham gia bảo vệ di sản Huế. Đồng thời cần mở rộng mô hình xã hội hóa nhằm tạo điều kiện và môi trường cho các tổ chức xã hội, tổ chức quốc tế và cộng đồng cùng tham gia vào công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Cố đô Huế.

Thứ tư, tiến hành kiểm kê, sưu tầm số hóa, lập hồ sơ khoa học cho hệ thống di sản văn hóa phi vật thể, di sản tư liệu để vừa giữ gìn bảo vệ và phát huy giá trị. Khuyến khích việc giữ gìn, biên soạn, quảng bá các loại hình văn hóa phi vật thể; duy trì, phục hồi và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu; nghiên cứu về phong tục tập quán, trang phục truyền thống, dân ca, dân nhạc, dân vũ đồng bào các dân tộc thiểu số. Tiếp tục nghiên cứu xây dựng hồ sơ di sản Ca Huế đệ trình UNESCO vinh danh là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại trong thời gian tới. Để bảo vệ những báu vật nhân văn sống, ngoài việc công nhận tài năng và sự cống hiến của họ cần ban hành các chính sách đãi ngộ, tôn vinh và tạo mọi điều kiện tốt nhất về vật chất và tinh thần để các nghệ nhân lão thành có thể phát huy mọi khả năng trong việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa phi vật thể.

Thứ năm, triển khai các chương trình nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ hội để xây dựng thành sản phẩm du lịch có tính đặc trưng của vùng đất. Xây dựng hệ thống các giải pháp hiệu quả để hạn chế những tiêu cực do du lịch số đông đem lại. Nâng cao chất lượng các loại hình nghệ thuật, các hoạt động trong Festival. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, lễ hội như các loại hình Festival Huế, Festival Nghề truyền thống Huế để thu hút nguồn lực của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội để giảm dần nguồn kinh phí bao cấp của nhà nước. Hình thành các chương trình quảng bá, giới thiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng du lịch trong nước và nước ngoài.

Thứ sáu, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thống nhất tổ chức bộ máy quản lý, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Cần nhìn nhận đánh giá lại các mặt tích cực và tiêu cực trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản Huế phục vụ phát triển và ngược lại tác động của quá trình phát triển đối với di sản, rút ra các bài học kinh nghiệm. Đẩy mạnh kết nối, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm cơ hội quảng bá các giá trị di sản văn hóa Huế. Ngoài ra cần có kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học có đủ kinh nghiệm và năng lực chuyên môn để tiếp thu các công nghệ tiên tiến ứng dụng hiệu quả vào lĩnh vực bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di sản.

Thứ bảy, khai thác các yếu tố đặc trưng của di sản văn hóa Huế để tập trung phát triển sản phẩm du lịch với tính đặc thù riêng có và cạnh tranh cao. Triển khai có hiệu quả Đề án Festival 4 mùa. Phát huy lợi thế của thành phố Festival, các loại hình hoạt động Festival, xem các kỳ Festival là sản phẩm du lịch chủ lực của Thừa Thiên Huế. Tăng cường tổ chức các sự kiện văn hóa nghệ thuật, thể thao, lễ hội truyền thống... Đẩy mạnh xã hội hóa các sản phẩm, dịch vụ tại Đại Nội và các điểm di tích trên địa bàn. Tập trung xây dựng và khai thác có hiệu quả các sản phẩm và dịch vụ xoay quanh các thương hiệu đặc trưng như “Huế - Kinh đô ẩm thực”, “Huế - Kinh đô áo dài”, “Huế - Thành phố Lễ hội”. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng phục vụ du khách tại các điểm di tích, tích cực tuyên truyền, quảng bá hình ảnh di sản văn hóa Huế ở trong nước và quốc tế.

5. Thay lời kết

Sau 50 năm nỗ lực bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, Cố đô Huế đang có sự hồi sinh và phát triển mạnh mẽ. Rất nhiều di sản đã được cứu vãn, bảo tồn và phục hồi, vẻ đẹp xưa như đang trở lại nhưng lấp lánh dưới một ánh hào quang mới - hào quang của thành phố di sản, thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam.

Huế ngày nay đã trở thành một địa chỉ du lịch nổi tiếng trên toàn thế giới, được mệnh danh là điểm không thể không đến nếu bạn muốn tìm hiểu về đất nước, con người và văn hóa Việt Nam. Khi công nhận di sản Cố đô Huế, UNESCO đã tặng cho thành phố này một slogan tuyệt vời và đầy ý nghĩa: “Huế luôn luôn mới”, và hiện nay thành phố Huế trực thuộc Trung ương (từ 1/1/2025) đã sẵn sàng cùng cả nước tham gia vào “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”!

P.T.H
(TCSH432/02-2024)

------------------
1 Amadou - Mahtar M’Bow (1999), “Vì công cuộc bảo vệ, giữ gìn, tu sửa và tôn tạo di sản văn hóa của thành phố Huế, Ấn phẩm Kỷ niệm 5 năm Huế - Di sản Văn hóa Thế giới (1993 - 1998), Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, tr.6.
2 Dẫn theo Báo cáo tình hình hoạt động du lịch 2023, phương hướng, nhiệm vụ năm 2024 của Sở Du lịch Thừa Thiên Huế.

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng
Huế - Réunion (28/02/2025)
Ánh sao đêm (26/01/2025)