Tạp chí Sông Hương - Số 61 (T.03-1994)
Cái chết của con Đốm
14:57 | 18/12/2025

LÊ THỊ HOÀI NAM

Ngay từ sáng sớm, ông đã thấy lòng rộn lên một niềm vui. Ông cũng chẳng hiểu rõ niềm vui ấy từ đâu đến. Có thể đó là niềm vui của sự thanh thản?

Cái chết của con Đốm
Minh họa: Hà Văn Chước

Ông ngồi nhấm nháp ly cà phê đen, đang lúc tâm trạng phấn chấn, ông bỗng thấy từ cổng lừ lừ một con chó, một con chó có bộ lông đốm loang lổ. Ông chững lại, rồi theo thói quen tự vệ, ông định kiếm một thanh gỗ. Nhưng ngay lập tức, ông hiểu rõ tình cảnh của con chó. Nó gần như kiệt sức, thân hình thóp lại, bốn chân run rẩy, đôi mắt buồn rầu như cầu khẩn, như van xin không có vẻ gì đe dọa sự an toàn của ông. "Mèo đến nhà thì khó, chó đến nhà thì may", câu nói dân gian chợt ập đến trong đầu ông. Ông nghĩ “Hay thần tài đang gõ cửa?”. Và thế là, ông tiếp nhận nó như một báu vật. Bất chấp cả mùi ôi thối, bất chấp cả những con bọ chó đang bám đầy trên người nó, ông chộp lấy con chó đốm như sợ rằng nếu không nhanh tay, trong nháy mắt con chó sẽ biến mất.

Từ đó đến nay, thời gian chưa lâu, nhưng gia đình ông đã có nhiều thay đổi. Công việc làm ăn kinh doanh của ông trôi chảy, phát đạt hẳn lên. Có thể do có niềm tin về cơ may nên ông đã có quyết chí hơn? Vả chăng, chuyện làm ăn mất được cũng là chuyện thường. Tất nhiên! Nhưng với ông, mọi việc là do con Đốm. Ông tin thế, cho nên đã hết lòng chăm sóc nó như chăm sóc một ông tiên giả kẻ ăn xin. Ông bồi bổ cho nó không thiếu thứ gì. Thực đơn của ông thế nào thì con Đốm cũng như thế. Ông tắm rửa cho nó thường xuyên, xát vào người nó toàn những loại xà phòng hảo hạng. Sống trong no đủ, chẳng mấy chốc con Đốm trở nên trơn lông mượt da, đẹp mã hẳn ra...

* * *

Ông thường cố giấu chuyện con Đốm đến nhà ông. Nhưng khi khoái chí, ông lại bốc lên kể với bạn bè. Do đó chuyện con Đốm nhà ông cứ thế được nhân ra, loang thêm.

Ai cũng bảo ông gặp hên, và người ta đã thêu dệt thêm về sự tinh khôn trung thành có nghĩa của nó đối với chủ.

Quả thật, Đốm không là giống chó Berger Đức hay loại Phú Quốc thuần chủng nổi tiếng, nhưng lại rất tinh khôn. Ông chưa hề có ý định huấn luyện cho nó "Chậc! Chó thiêng thì cứ gì phải huấn luyện". Nhưng ông nhận thấy cái gì nó cũng cảm biết được. Từ khi khoẻ mạnh, ngày nào nó cũng bốn vòng đưa đón chủ đi làm. Nó tiễn, đón ông có khi xa hàng cây số. Chỉ đến khi nào, bóng ông chủ mất hút trong dòng người nó mới chịu quay về.

Ở nhà, Đốm nhất nhất làm theo lệnh của ông chủ. Không bao giờ nó chịu ăn trước. Ông mà chưa dùng cơm thì đói mấy nó vẫn không đụng đến đĩa thức ăn dành cho mình. Còn đi đâu xa ông phải "báo trước" để nó khỏi chờ. Mỗi lần ông đi đâu về Đốm vui như tết, Đốm nhảy cẩng lên, quấn lấy chân ông không rời nửa bước. Cái đuôi đã ngắn cũn lại lệch cứ quật qua quật về trông thiệt ngộ. Ông chủ mà vui thì nó tíu tít, chạy nhảy. Ông chủ buồn nó cũng im re, liếm tay ông tỏ vẻ cảm thông. Mùa nào cũng như mùa nào, bất kể nóng, lạnh, mưa, nắng nó đều nằm ở hiên nhà. Đôi mắt lim dim như ngủ. Nhưng chỉ cần một tiếng động nhỏ là nó nghếch tai nghe ngóng rồi phóc ra vườn sục sạo loạn xạ. Từ ngày có con Đốm, trộm không dám lẩn quẩn ở vườn nhà ông. Làm gì? Chỉ cần ông ra hiệu là nó hiểu ngay. Có lần, ông đang loay hoay tìm chiếc bít tất trong ống giày bị thất lạc, Đốm im lặng ngồi quan sát ông chủ. Nó khịt khịt cái mũi vào chiếc bít tất còn lại rồi chạy lăng xăng hết nơi này đến nơi khác. Một lúc sau, nó lôi từ gầm tủ ra chiếc tất mà ông đang cần.

Đốm rất trung thành bảo vệ chủ. Ví như có lần, thằng cu Thừa ở nhà bên qua chơi. Nó níu vào cánh tay ông để đánh đu. Tưởng có kẻ tấn công chủ, nó lao đến sủa ầm ĩ rồi cắn vào chiếc quần đùi của cu Thừa làm tụt đến nửa. Cu Thừa được một mẻ xanh mắt, sợ đến són đái. Ông phải "giải thích, thương lượng" với Đốm rằng: "Giỡn chơi thôi, không có gì nguy hiểm cả", nó mới chịu buông tha.

Những ngày ông bị đau ốm, nó nằm phủ phục dưới chân ông, bỏ ăn, bỏ uống, thoảng lại ghếch hai chân trước lên thành giường nhìn vào mặt chủ, liếm vào tay chủ vỗ về, âu yếm.

Ông cũng cảm nhận được tình yêu của nó. Bây giờ với ông, Đốm không chỉ là "thần tài" mà còn là một người bạn. Giữa ông và Đốm đã có một sự giao cảm tuyệt vời. Đốm trung thành, yêu mến chủ bao nhiêu thì ông cũng thương yêu nó ngần ấy. Chiều chiều đi làm về, ông ngồi đọc báo ở chiếc ghế xa lông bọc nệm, để mặc cho Đốm làm gì thì làm. Nó liếm chân ông, nó liếm bàn tay ông, nó níu kéo ông, buộc ông không chỉ "thương thầm" mà phải biểu hiện tình cảm đối với nó bằng những ve vuốt, những lời nói nựng, những cái rung mõm, những lời quát yêu, đại để như "Hư lắm!" "Ngốc lắm!".

Cũng từ ngày đó, ông bỏ hẳn món thịt chó, vốn là thứ ông rất ghiền. Trước đây, cứ vào nửa sau tháng âm lịch, chiều nào ông cũng ghé thăm "phố chó". Ông thường ngụy biện về sự ham thích thái quá của mình về món "cờ tây", "mộc tồn" này rằng: Ăn chó để phá "hãm", giải đen. Còn với bà vợ kỹ tính thì ông lại có cách nói khác "Này nhé, chẳng hạn nhà ta có sáu người khách. Một con gà? nhỏ quá! Một con heo? To quá. Vậy thì con chó là vừa, món khuyển này vừa bình dân, vừa thú vị, vừa là văn hóa dân tộc vào hạng "Quốc hồn, Quốc túy". Ông chê các chủ quán chó treo biển "Cầy tơ bảy món" là xoàng: “Thế mà cũng đòi quảng cáo! Bét cũng trên chục chục”. Ông mà nhận xét về các món chó dù đến ai kinh sợ thịt chó cũng phải phát thèm. "Dựa mận phải nấu sao cho ngọt, cho mềm. Miếng gắp lên đũa tiết phải đóng thành tơ như níu miếng còn nằm dưới đĩa lên theo."

Ghiền như thế mà bây giờ nghĩ đến mùi thịt chó tự nhiên ông thấy lờm lợm như các nhà tu hành ngửi thấy món mặn.

Ngoài tứ tuần, nhờ mấy năm công việc làm ăn trôi chảy, ông trở thành tay anh chị trong làng kinh doanh. Những toan tính làm ăn đã làm cho tóc ông sớm bạc non muối già tiêu. Thoảng, ông lại "thuê" cu Thừa sang nhổ tóc sâu. "Một trăm sợi một nghìn". Được tiền, cu Thừa nhổ thoăn thoắt làm ông rất đã. Nó vừa nhổ tóc sâu vừa hỏi ông đủ thứ chuyện. Những lúc như thế, ông thường nhượng bộ, chấp thuận trả lời mọi câu hỏi bất tận của nó. Nhưng lần này nó đặt ra một câu hỏi bất ngờ:

- Bác ơi, cháu thấy con chó tốt thế, nó giúp con người được nhiều việc, thế mà tại sao ai cũng mắng nhau là đồ chó hả bác?

Ông lúng lúng không biết nên trả lời với nó thế nào. Trong thâm tâm, cũng có lần ông đặt ra câu hỏi tương tự như thế. Nghe nói, trong thuyết luân hồi nhà Phật, chúng sinh sau ba vạn chín nghìn kiếp, dù kiếp chó là kiếp cuối cùng để được trở lại kiếp người. Vậy đáng ra con chó là loài vật gần nhân tính hơn cả...

Thấy ông im lặng, cu Thừa lại giục:

- Tại sao hở bác? Bác nói đi!

Bị hối thúc, ông trả lời cho qua chuyện.

- Ừ, nó tốt thật đấy! nhưng dù sao thì nó cũng là chó!

Con Đốm nằm phủ phục dưới chân ông, đôi mắt lim dim nhìn nắng hươm vàng. Bóng chiều đã phạt nghiêng tán cây bàng lá đỏ. Chợt một đám mây bay qua che khuất mặt trời. Đôi mắt Đốm tối sầm, xa xăm. Hình như nó có vẻ ngạc nhiên vì những tia nắng bỗng nhiên biến mất. Nó ghếch cổ nhìn lên bầu trời tìm kiếm rồi lại rũ mình xuống, ép sát vào chân ông chủ, trằn bộ lông ấm áp vào chân ông cọ xát, miệng bật ra tiếng rên ư ử.

- Gì thế Đốm?

Nó ngoan ngoãn đứng dậy đi về phía góc nhà. Nó nằm im bất động, chốc chốc lại hướng cái nhìn vừa ngạc nhiên vừa buồn rầu về ông chủ.

Hôm sau, ông cuống lên vì không hiểu sao con Đốm lại bỏ ăn, bỏ uống. Không sủa, cũng không đi lại, nó nằm dí ở hiên nhà thoi thóp thở. Ông đổ sữa vào một cái chai, cạy miệng Đốm đổ vào họng nhưng nó giãy giụa cự tuyệt rồi nôn tháo ra ồng ộc. Hoảng quá, ông cho mời một bác sĩ thú y có tiếng đến để chữa trị. Sau nhiều lần khám nghiệm, xem xét kỹ lưỡng, bác sĩ lắc đầu tuyên bố:

- Rất tiếc là tôi đã không chẩn đoán nổi căn bệnh của nó.

Ông chủ buồn rầu đưa tay vuốt bộ lông xơ xác của nó. Ông khổ sở vì không sao cắt nghĩa nổi căn bệnh của Đốm: Ông nhớ lại những ngày Đốm sống trong căn nhà của ông. Ông lẩm nhẩm "Mấy ai được như nó". Đúng một tháng sau thì Đốm chết. Thời gian chậm chạp trôi, Đốm dật dờ trong đau đớn. Nó không ăn, thi thoảng mới liếm vài hớp nước trong. Thân hình Đốm chỉ còn một nắm xương nhưng đôi mắt lại trong veo u buồn. Nó cứ nhìn mãi ra bóng nắng, rồi lại nhìn ông chủ. Nó nhìn ông với đôi mắt lạ lẫm, vừa tha thiết, biết ơn vừa hờn dỗi trách móc rồi sầm lại xa xăm như luyến tiếc quãng đời mà nó đã từng được sống trong vòng tay của chủ.

Đốm chết, mang theo cả bí mật về một căn bệnh hiểm nghèo xuống lòng đất.

Nghe đâu, từ ngày đó, gia đình ông làm ăn sa sút dần. Lời đồn ấy, chắc cũng chẳng có cơ sở.

Huế, Nôel 1993
L.T.H.N
(TCSH61/03-1994)

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng
Chùm thơ Hơ Vê (12/12/2025)
Tiếng chim (05/12/2025)