Thơ anh tặng, đến hơn mười tập, tôi đặt ở dãy “ưu tiên” là dãy sách tặng của các tác giả đã mất, dễ nhìn dễ thấy nhất, trong tủ sách phía trước bàn làm việc của tôi. Nên tôi thấy và chào anh từng buổi từng ngày. Đôi chim hạc bằng rễ cây đặt trên bàn thờ phụ cạnh bên bàn thờ ba mẹ tôi. Đôi chim hạc này anh tạo hình chưa thật điêu luyện nhưng tôi quý nó vì đó là một trong những tác phẩm rễ cây vào loại đầu tay của anh. Và con chó Jò bé xíu. Ngày con gái tôi bị tai nạn, sau khi phẫu thuật cấp cứu, cháu phải ở trong nhà kín mít cửa ngõ hơn năm trời chờ ngày đi chữa bệnh xa, không dám cho ai thấy bộ mặt dị dạng của mình. Đó thực sự là những ngày dằng dặc nỗi dày vò đau đớn của cháu. Bác Hải Bằng thương cháu, để dành cho một con chó đẹp nhất vừa ra đời trong lứa chó Nhật đẹp nhất của anh dịp đó, gọi Diệu Liên về bồng lên cho chị, với cầu mong cái nhí nhảnh, loăng quăng của con chó bé xíu, tròn lẳn gọn giữa bàn tay, sẽ làm dịu đi đôi chút nỗi dày vò đau đớn của cháu, nhất là một khi cháu phải xú rú ở nhà một mình. Con chó nhỏ và Diệu Linh quấn quýt với nhau suốt ngày và nụ cười cũng đã có lúc đến với “hai chị em”. Diệu Linh đã vui nghịch đặt tên cho nó là Jò-bái (dái bò!), gọi tắt là Jò. Từ đó, Jò trở thành một thành viên đặc biệt của gia đình tôi, biết sẻ chia nỗi buồn của chị và gia đình. Nhân nói chuyện tình cảm, không thể quên cái tình của anh với nhà anh Ân trại cá. Chúng tôi hay gọi là anh Ân-trại-cá vì Ân nguyên là Giám đốc xí nghiệp nuôi cá Cư chánh. Ngày anh đang ăn nên làm ra, đến cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đã đến thăm động viên. Hôm đó cận Tết, khi Đại tướng đến phải chạy tìm anh khắp các nơi, mãi mới thấy anh đang cặm cụi ở ao cá mẹ sắp đẻ. Anh làm việc không có giờ giấc, ăn mặc tuềnh toàng, “bộ gió” như anh thợ đào đất thuê chứ không có chi là kỹ sư thuỷ sản thứ thiệt lâu năm, càng không có chi hơi hướng của một giám đốc của một cơ sở làm ăn có tiếng. Những ngày đó, anh em văn nghệ hay lên thăm và “đeo” anh lắm. Bởi trong xí nghiệp có không ít nơi “sơn thuỷ hữu tình”, những đêm trăng thì càng tuyệt vời hơn, cho những cuộc lai rai mà đồ mồi là cá mú cây nhà lá vườn và nụ cười chân chất luôn nở trên môi anh suốt cuộc thơ phú nhạc có lúc suốt sáng. Mỗi khi có khách Hà Nội, Sài Gòn, anh em còn kéo lên bắt anh “thay mặt Huế” tiếp đãi. Xí nghiệp cá và nhà Ân đã thành một địa chỉ “trong nhà” của Hội Văn nghệ. Nhưng từ khi anh gặp trắc trở trong làm ăn và anh mất sau lần bệnh trọng, thật đáng buồn, quá nhiều anh em vốn hay “đeo” anh đã “quên” mất địa chỉ nhà anh, hiếm khi có ai lên thăm, động viên chị Tiếp vợ anh và bốn cháu còn nhỏ. Hải Bằng vốn không uống rượu và không quen ăn nhậu, chỉ “phó hội thơ phú” cho vui bạn bè thôi. Nhưng, sau ngày anh Ân mất, ngay cả khi bệnh trọng đang hành hạ bản thân, anh vẫn đạp xe cà cọc cùng tôi hay lên thắp hương cho Ân và thăm chị cùng các cháu, xem có gì có thể góp một tay giúp đỡ. Hải Bằng sống rất có tình. |