Em là gái bên song cửa Anh là mây bốn phương trời Anh theo cánh gió chơi vơi Em vẫn ngồi bên song cửa Em chỉ là em gái thôi Người em sầu mộng muôn đời Tình như tuyết giăng đầu núi Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời
Ai bảo em là giai nhân Cho anh lòng anh đau buồn Ai bảo em ngồi bên song Cho vương nợ thi nhân... ... Cho lòng anh đau khổ... ... Cho mộng tràn gối chăn...
Bài thơ phổ nhạc thành bài hát đó, tôi đã hát từ đầu những năm sáu mươi, thuộc lòng đến tận bây giờ, những mãi sau nầy tôi mới biết là của cố nhà thơ Lưu Trọng Lư dành tặng chị. Lần đầu tiên tôi biết chị, là lúc chị đã ngoài bảy mươi. Nhìn mái tóc bạc trắng như bạch kim của chị, tôi gọi bằng cô, nhưng chị bảo “em cứ gọi là chị, cho trẻ...”. Ban đầu, tôi cứ ngài ngại thế nào, nhưng đã gần mười năm nay, tiếng “chị” nghe thật gần gũi, thân thương. Dáng người nhỏ nhắn, bù lại, chị có gương mặt đẹp tuyệt vời. Chị cho tôi xem tấm ảnh chụp khi chị và anh Bửu Điềm mới cưới nhau, khuôn mặt mới đẹp làm sao! Cái mũi cao, thẳng, hai má lại có hai lúm đồng tiền, nên nhìn mặt chị, ta có cảm giác như chị đang cười. Chị là một con người tài hoa, vừa giỏi khoa học (là bác sĩ nha khoa, tốt nghiệp ở Việt Nam, sau đó ở Pháp) vừa giỏi nghệ thuật, là một nhà điêu khắc nổi tiếng ở Châu Âu, tác phẩm của chị đã được dựng nhiều nơi ở nước Pháp, chị là viện sĩ Viện Hàn Lâm Châu Âu... Những điều đó, đài báo đã nói nhiều rồi, ở đây tôi xin nói một “chút” về “phạm trù” tính cách, tình cảm của chị. Là một nghệ sĩ lớn, nhưng chị sống rất tình cảm. Ngày 29 - 5 - 1998 tôi từ Toulon - Var (một thành phố của miền nam nước Pháp, nằm bên bờ biển Địa Trung Hải, cách
Paris 834 km về nhà chị ở 4 rue René Isidore. 92260 FONTENAY aux Roses. Đó là một căn hộ tập thể rất đẹp ở tầng trệt, phía trước có vườn hoa, cây cảnh... cắt xén rất công phu. Như lời anh Nguyễn Xuân Hồng (bạn thân của chị ở
Paris ) đã nói: “Nhà chị Điềm ở khu phố ngoại ô của nhà giàu. Không như ở Việt Nam, ở các nước Âu-Mỹ, người càng giàu, càng thích ở xa trung tâm thành phố, xa những nơi buôn bán, siêu thị... ồn ào”. Ngôi nhà này chị đã bán cho một người Pháp ở căn hộ phía trên căn hộ của chị, vì vậy chị ở thêm ngày nào phải trả một nghìn Francs mỗi ngày (tương đương hai triệu đồng VN). Những ngày đó, chị bận túi bụi cho việc sáng tác thêm tranh, tượng... để đưa đi
Washington DC triển lãm. Việc có cuộc triển lãm của chị ở Mỹ cũng rất tình cờ: một du khách người Mỹ, là chủ một Galery ở Washington, nhân một chuyến du lịch sang Việt Nam, tình cờ đọc được trên máy bay một bài báo nói về chị, bà ta liền liên hệ với chị và dự định sắp xếp cho cuộc triển lãm đó. Tháng 3 - 1998 khi chị mới trở lại Paris để hoàn tất lo việc bán nhà thì nhận được hợp đồng triển lãm ở
Washington , bấy giờ chị đã 78 tuổi. Thế mà chị làm ngày, làm đêm, làm không biết mệt mỏi. Chị làm một loạt tranh tượng mà tôi chưa thấy ở Việt trước đó. Những bức tranh ghép từ những mảnh vải màu, như tranh Nguyễn Trãi, tranh các môđun ghép lại...), nấu đồng chảy ra (có ánh nhũ vàng) và đổ lên trên... thành những hình dạng rất đặc biệt... Thật tình tôi cũng không thể nào hiểu hết, có hỏi, chị trả lời “ai muốn hiểu thế nào thì hiểu”. Những ngày đó, chị làm việc suốt ngày đêm đến nỗi quên cả ăn, cả ngủ... Tôi hỏi chị có mệt không, chị bảo “Ham làm không thấy mệt”. Khi chị thấy đã đủ số tranh, tượng để gởi đi Mỹ, thì lại đến bao nhiêu công việc không tên đi kèm theo như đóng, gói... lên danh sách, giá cả... Người chị mến và hay nhắc đến đầu tiên là anh Nguyễn Văn Mễ Chủ tịch tỉnh TT.Huế. Có lần tôi trêu chị “Chị thì khi mô cũng anh Mễ hết” (thế mà nay chị đi xa mãi mãi thì anh Mễ lại bận việc nước ở Hà Nội không về kịp). Người thứ hai là anh Tô Nhuận Vỹ. Lần đầu chị về Huế, chị nhất thiết đòi anh Vỹ phải làm đại diện cho chị, để thành lập nhà trưng bày (ở số 1 Phan Bội Châu bây giờ). Những ngày chị đau ốm, mỗi lần chúng tôi đến thăm, chị cầm tay anh Vỹ và rơm rớm nước mắt nói “Em đừng bỏ chị mà tội!” Một người nữa, chị thương như con cháu là Xuân Phương. Chị nói với tôi “Khi nào đi Mỹ triển lãm chị sẽ cho Phương đi cùng”. Thế mà trời lại bắt chị đau để “giấc mộng nghệ thuật” của chị ở bên kia Thái Bình Dương không thành, thật thương chị quá! Tôi được may mắn ở với chị mười ngày ở... FONTENAY aux Roses. Ban ngày bên chị có anh Hoàng (người giúp chị lo giấy tờ, nhà cửa), anh Sa (cũng là bạn của anh Hà Thúc Đạt và anh Nguyễn Xuân Hồng mà hai anh gọi là Sang, cho nó “sang”) giúp chị làm tranh, tượng... Anh Đạt, anh Hồng là hai anh người Huế, bạn thân của chị ở
Paris . Cô Hiếu - cô gái nấu ăn cho chị ở Pháp nói: “Lần đầu tiên em thấy bác (chỉ chị Điềm) cho chị ở với bác đến mười ngày. Em nấu cơm cho bác mười tám năm nay, chưa bao giờ thấy ai được ở lại nhà bác, dù chỉ một ngày, cả người Việt lẫn người Pháp”. Đến bữa ăn, chỉ còn lại chị và tôi. Chị ăn rất ít, ngược lại với sức làm việc rất nhiều của chị. Đêm nào cũng vậy, đã mười hai giờ đêm rồi mà chưa ai ngủ được. Thế mà trước lúc đi ngủ, lúc nào chị cũng lấy 2 viên thuốc ngủ, “chị uống một viên, còn em một viên”. Chị có tuổi, ít ngủ đã đành, còn tôi, tuy qua Pháp đã gần bốn tháng nhưng vẫn chưa quen giờ giấc. Ơ Pháp chậm hơn ta sáu tiếng về mùa hè và năm tiếng về mùa đông. Cứ đến ngày xuân phân 20-3 hàng năm, người dân Pháp lại vặn đồng hồ thêm một giờ. Bởi vậy ở Pháp mùa xuân, mùa hạ có ngày đến hơn tám giờ tối rồi mà vẫn còn ánh sáng mặt trời. Vì thế ngày rất dài, nhưng đêm lại quá ngắn. Phòng ngủ của chị sát chân cầu thang lên các tầng trên của khu nhà, mỗi lần có ai về khuya, bấm chuông cầu thang, hai chị em cứ tưởng họ bấm chuông nhà mình. Tôi hỏi chị: “Sao chị không ngủ một trong những phòng phía trong, xa cầu thang cho đỡ ồn?” Chị nói “Anh Điềm thích ngủ ở phòng nầy”. Chị thương chồng đến nỗi, khi anh không còn nữa chị vẫn ngủ ở phòng đó, như khi anh còn sống. Nói đến việc chăm sóc chồng, chị quả là người phụ nữ khác thường. Khác thường ở chỗ chị rất mực yêu thương chồng từ trẻ cho đến lúc già, anh bị căn bệnh quái ác là “mất trí nhớ”. Chị kể: Khi còn ở Pháp một người bạn của anh chị làm được một căn nhà mới, to, đẹp, anh chị đến thăm. Anh đứng trên đầu cầu thang, bị trượt chân, anh lăn xuống chân cầu thang và đập đầu vào một cái thùng gỗ, từ đó, anh lâm trọng bệnh. Chị vừa lo công việc sáng tác, làm ngày, làm đêm, bao nhiêu cuộc triển lãm Đông, Tây, Âu, Á... vừa lo chữa bệnh cho chồng. Ai bày vẽ gì chị cũng nghe, xa mấy, khó khăn mấy, chị cũng chạy thầy, chạy thuốc cho anh. Anh Điềm cũng là bác sĩ nha khoa, còn giỏi hơn cả chị nữa! (theo lời chị nói). Bệnh tình của anh không hề thuyên giảm, chị đưa anh về nước để chữa “nhân điện”. Chị bươn bả hàng ngày thuê người, thuê xe đưa anh đến chùa Diệu Đế để “nhân điện”. Những lúc chị phải đi xa (về Pháp chẳng hạn), anh còn nói “Cúc đi mau mà về”. Nói xong câu đó, bao giờ anh cũng khóc. Sau nầy, khi bệnh quá nặng (lại thêm tuổi già) đến tên chị anh cũng không còn nhớ nữa. Mỗi lần chúng tôi đến thăm, thấy hai vợ chồng già mà thương yêu nhau hết mực, tôi cũng tự nhủ mình, noi gương chị mà sống cho tốt hơn. Đêm thứ hai ở nhà chị, trước lúc đi ngủ, chị vào phòng tắm, thấy tôi đang đánh răng với cái bàn chải tôi mang theo. Chị la “Em dùng cái bàn chải chi mà cũ rứa?. Tôi nói “Cái nầy em mới dùng có vài tháng chứ mấy!” Chị nói: “Vài tháng mà còn chứ mấy!”. Hôm sau chị đi siêu thị mua về cho tôi cái bàn chải của Pháp hẳn hoi. Tôi vẫn còn giữ cái bàn chải ấy cho đến bây giờ để làm kỷ niệm. Buồn cười, nhiều lúc ngồi nói chuyện, chị còn lên “lập trường” với tôi, chị bảo: “Em qua đây ăn nói cho cẩn thận đó nghe!”. Tôi dạ ran, còn chọc: “Chị ghê quá hí!” Chị cười trông thật hiền...
... Mới biết chị đó, thoắt đã gần mười năm. Và bây giờ chị đã thành người thiên cổ! Đời người “sinh ký, tử quy”; viết những dòng nầy tôi đã khóc, thương chị rất nhiều... Mấy tháng gần đây, chị hay gọi điện thoại lên nhà tôi và nói “Chị thấy anh Bửu Điềm về!. Nếu tôi có nói “Anh Điềm mất rồi!” là chị giận lắm. Chị nói “Cho chị nói chuyện với anh Vỹ, để hỏi anh Bửu Điềm đang ở đâu?” Bây giờ trở đi, chị chẳng còn để gọi em có ngày đến hai, ba lần nữa rồi! Em cầu mong cho chị và anh Bửu Điềm sum vầy với nhau nơi chín suối. Ngày chị mất 29-1-02 (17-12. Tân Tỵ) P.T.C (nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)
|