Và các thú chơi của người Cố Đô như thưởng trăng nguyên tiêu trên núi Ngự, thả đèn trên sông Hương, chợ chơi Tết, ca Huế salon, vườn tượng bên sông Hương, những con giáp của Hải Bằng, trò chơi điêu khắc của Điềm Phùng Thị v.v.. dù tác giả không sắp xếp mà bố cục môt cách ngẫu hứng nhưng rất lôgíc và cuốn hút. Ngô Minh đã thổi hồn thơ của mình vào từng trang, từng bài viết! Phải nói rằng tác giả có vốn sống rất phong phú và sâu sắc, rất am tường về văn hoá Huế, con người Huế. Ngô Minh rất chí lý khi đưa ra cảm nhận: “Món ngon xứ Huế là món ngon Chăm, món ngon dân gian Huế và món ngon cả nước do giao lưu, hoà quyện với linh khí đất Thuận Hoá mà thành...” hay: “Chơi nấu ăn ở Huế có lẽ là “sự chơi hơn cả”...Để có những bài viết hấp dẫn và phong phú như vậy, tác giả đã dày công nghiên cứu các tác phẩm dạy nấu ăn của Hoàng Thị Kim Cúc, người khơi nguồn cho bài thơ nổi tiếng Đây thôn Vĩ Dạ của thi sĩ họ Hàn, sách dạy nấu ăn bằng thơ Thực phổ bách thiên (trăm món ăn phổ biến) của bà Trương Thị Bích, con dâu của thi sĩ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, rồi cần cù ghi chép, hỏi chuyện tỉ mỉ các bà các mệ bán quán, nấu món ăn Huế, rồi từ đó đưa ra những nhận xét rất tinh tế, rất thơ. Ví dụ khi uống rượu Minh Mạng Thang, Ngô Minh viết: “Minh Mạng Thang ngon và mạnh. Uống vài chén đã nghe lòng lâng lâng, lại muốn làm chuyện lớn...” Hay viết về ngọn đèn Hoa kỳ của người bán hột vịt lộn đêm ở Huế: “Ngọn đèn dầu “hôvilô” mỗi đêm lại được thắp lên như tín hiệu thân thương của cuộc sống... Nguồn sáng ấy đã trở thành kỷ niệm khuất chìm trong mỗi đời người, khi nhắc đến, nhớ đến lại cháy lung linh tâm tưởng...” Cuốn sách còn có nhiều chi tiết thú vị như Bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại, xuất thân là cô gái xinh đẹp bán cháo bò ở làng Mỹ Lợi; hay Minh Mạng xây riêng Thượng Thiện đường với 50 đầu bếp mỗi người phụ trách một món, thái giám chuyển thức ăn từ bếp vào cung, còn dâng thức ăn cho vua là các thị nữ..., còn vua Khải Định thì không thích phụ nữ, nên trong bữa ăn của vua không có mỹ nữ cung tần nào dám lai vãng... Cơm vua chỉ có vua ăn một mình, nhưng đến thời vua Duy Tân, tục lệ nghiêm ngặt đó của riều Nguyễn bắt đầu bị xóa bỏ. Vua cho phép chánh phi Mai Thị Vàng được ngồi cùng mâm. Ông dẹp bỏ tục lệ vua ăn 50 món một bữa, mà chỉ thích ăn cơm và cá bống thệ kho.v.v... Sách Ăn chơi xứ Huế đã bao quát được sắc phong vị các món ăn xứ Huế. Tuy nhiên trong “Lời giới thiệu” Nguyễn Khoa Như Ý (nhà văn Hà Khánh Linh) có nhận xét rất đúng rằng: “Còn những món ăn cung đình xưa, nay vẫn còn lưu lại trong các gia đình Hoàng phái, quan lại, trí thức cũ của Huế thì ít được nói đến”. Cũng dễ thông cảm với tác giả vì những món ăn Huế đang phổ biến thì dễ được thừa nhận. Theo thiển ý của tôi, việc chia cuốn sách thành hai phần "ăn" và "chơi" có thể không cần thiết vì nếu không chia mà cứ in liên tục các bài thì giá trị của cuốn sách không hề giảm đi. Gấp sách Ăn chơi xứ Huế lại, tôi cứ miên man nghĩ đến một Ngô Minh đam mê tài hoa trong thơ, một Ngô Minh Khôi tâm huyết và nhạy cảm trong báo chí, lại một Ngô Minh nhà văn hoá ẩm thực Huế!. Tôi hy vọng rằng nếu sau khi đọc sách, để các độc giả bỏ phiếu tín nhiệm, có thể mọi người sẽ không khắt khe xếp Ngô Minh vào sau đội ngũ các nhà ẩm thực nổi tiếng của nước ta như Tản Đà, Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Băng Sơn.! Thật thú vị khi đọc Ăn chơi xứ Huế của Ngô Minh. N.V.H (nguồn: TCSH số 160 - 06 - 2002) |