Góc Hoài niệm
Hành trình nhọc nhằn của một bia mộ
10:48 | 18/08/2014

Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…

Hành trình nhọc nhằn của một bia mộ
Trước nhà bia năm 1951. Ảnh: Võ An Ninh
Ký ức lạnh

Bồi hồi nhớ thêm một chuyện với cụ Tô Hoài. Thời điểm nạn đói khủng khiếp ấy, cụ hoạt động bí mật kiêm làm báo Cứu Quốc. Một đêm, anh giao thông chuyển gấp đến cụ một tài liệu quan trọng. Đó là bản dập những đoạn bài báo mà kiểm duyệt nhà in báo Tin Mới đục bỏ. (Rất may, nhờ người giúp nên tôi đã tầm được vài đoạn như sau).

Người chết đói nhiều đến nỗi không thể chôn kịp vì người đi chôn cũng đã lử lả rồi. Khi đi nhặt xác gặp ai ngắc ngoải bọn này cũng lôi đi chôn. Vì nếu có để lại thì cũng đến chết nốt. Lúc vùi xuống hố những người ấy còn chắp tay van lạy, nhưng bọn người đi chôn cũng cứ lấp đi vì không chôn được người thì không được trả công.

Hải Hậu (Nam Định) có làng 1.000 đinh, chết đói tới 700. Dân phố Phủ Nam Trực có 16 vạn, mỗi ngày chết 400 trong số đó có cả lý trưởng, phó lý các chức dịch trong làng.

Các chỗ đói nhất Ninh Bình là Yên Khánh, Yên Mô, Kim Sơn. Dân số Ninh Bình là 96.000 người. Số người chết đói hai tháng khai là 3.325 người nhưng thật ra phải gấp ba nghĩa là độ 1 vạn. 

Dân Phủ Nghĩa Hưng (Nam Định) có 15 vạn người. Số chết đói mỗi ngày khoảng 500. Dân đói phải ăn cả củ chuối và ăn cả thịt người.

VV…

Những dòng bị đục bỏ trong một bài báo ấy đã được hiện nguyên trạng trên báo Cứu Quốc, tờ báo của Tổng bộ Việt Minh như lửa lan, xốc lòng hờn căm dân chúng ào lên như nước vỡ bờ làm nên cao trào Cách mạng Tháng Tám.

Làn sóng người đói rã rượi tiều tụy các tỉnh đã lần lết đến Hà Nội để chết đói! Ngoài những người may mắn được bố thí cưu mang, hàng vạn người dân quê đã bỏ xác ở Hà thành và được gom chôn chung tại nghĩa trang Hợp Thiện.

Hợp Thiện? Một địa danh, địa chỉ nhân ái. Từ đầu thế kỷ XX, những việc tình nghĩa của nhà Hợp Thiện như công ty ấy đã mua mấy mảnh đất hoang ở ngoại thành để giành xây nghĩa trang. 

Rồi xây những trại tế bần này khác. Nhà Tang lễ ở 42 Phùng Hưng bây giờ cũng là một địa danh của Hợp Thiện sót lại. Nói là ngoại thành nghe có vẻ diệu vợi nhưng cái nghĩa địa Hợp Thiện là đường phố cùng chằng chịt giăng mắc nhà cửa của phường Minh Khai Vĩnh Tuy bây giờ. Nhà văn Thạch Lam (mất năm 1942) đã nằm lại ở Hợp Thiện. Thi sĩ Nguyễn Nhược Pháp (mất năm 1938) cũng táng ở Hợp Thiện sau đó mới sang cát về quê nhà Phượng Dực Thường Tín.

Một thời quên lãng?

Trong nạn nhân mãn và những chằng chịt giăng mắc của sự xây cất hối hả, phường Minh Khai, Vĩnh Tuy còn sót lại một khoảng trống hơn 150 m2. Gọi là khoảng trống nhưng đó là một nấm mồ tập thể khổng lồ nhất Thủ đô. Trần thùi lụi thì đó là một bể xương người đựng vài vạn cốt.

Thoạt đầu, xây bao xung quanh. Những năm đầu thập niên 90, “bể xương” còn nằm lộ thiên. Sau này dường như thấy chuế, người ta mới be thành bể bê tông kiên cố, cẩn thận còn để lại một lỗ thông âm - dương. Dần dà lỗ ấy bị bịt kín.

Bần thần ngồi lật giở 19 bức ảnh rùng rợn của nghệ sĩ Võ An Ninh ghi lại cảnh chết đói. Trong đó có bức năm Tân Mão (1951) cụ chụp tấm bia ở nhà mồ tập thể Hợp Thiện có hàng chữ Nơi an giấc ngàn thu của đồng bào ta bị oanh tạc và chết đói năm 1944-1945. Thì ra ở đây có cả đồng bào bị chết bom giặc Nhật?

May mắn thay tấm bia vẫn còn bên cái bể xương. Nhưng hai lối vào nhà mồ tập thể- bể xương ấy thông sang đường Minh Khai và Kim Ngưu dần dà bị bịt. Ngôi mộ tập thể lớn nhất Hà Nội những năm cuối tám mươi, đầu 90 đã gần như bị quên lãng!

Nhưng không phải tất cả bị bẵng đi! Lạ cái, dai bền và thường trực lại là người Nhật, thủ phạm và nguyên nhân chính của nạn đói khiến trên 2 triệu người Việt lả chết vào cái năm 1945 khủng khiếp!

Người Nhật? Mười ba năm trước, Nhà rùa học PGS Hà Đình Đức đã hé cho đám báo chí bức tâm thư gửi lên ông Chủ tịch Hà Nội khi ấy là ông Nguyễn Quốc Triệu.

Cũng xin trích ra một đoạn

Tôi là PGS. Hà Đình Đức trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội được tin thành phố đang có Dự án “Xây dựng tượng đài Tưởng nhớ đồng bào chết trong nạn đói 1945”.

Đây là việc làm có ý nghĩa nhân văn, để ghi lại một dấu ấn hết sức đau thương trong lịch sử đất nước được dư luận và nhân dân rất đồng tình. Tuy rằng đã bị lãng quên trong một thời gian khá dài.

Thưa ông chủ tịch. Trong cuốn sách “Kỷ lục 2 triệu người chết đói năm 1945” của nhà sử học Nhật Bản Furuta Moto năm 1993 có in bức ảnh khánh thành bia tưởng niệm (ảnh của Võ An Ninh chụp năm 1951- NV) trong đó có câu “đến nay không còn nữa”.

Rất may, tháng 8 vừa qua các vị lãnh đạo thành phố và các nhà sử học Văn Tạo, Dương Trung Quốc đến thắp hương. Chúng tôi được biết thành phố đang có dự định trùng tu tôn tạo để nơi đây thành khu di tích lịch sử. Công việc này rất đáng được trân trọng và hoan nghênh.

Vừa qua tôi và chị Trần Thị Thắng phóng viên báo Văn nghệ đã đi khảo sát và nhận thấy rằng: Từ phố Minh Khai vào ngõ 349 đường khá rộng thẳng vào bãi đỗ xe của Công ty Taxi Hương Lúa nếu phá bức tường ngăn là đi vào khu mộ, thay vì cửa vào theo ngách 559/86 Kim Ngưu và lấy một phần diện tích của bãi đỗ xe này làm nơi tập kết cho nhân dân đến đây thăm viếng khu tưởng niệm. Phương án này ít tốn kém về đền bù giải tỏa và Khu tưởng niệm sẽ rất khang trang.

Rất mong sự lưu tâm của ông.

Chân thành cảm ơn.

Coi thư mà mừng cho quyết định của thành phố đã gặp gỡ tâm nguyện của dân trong đó có các nhà khoa học! 

Thư gửi ngày 2/11/2001 thì ngay ngày 18/12/2001, PGS Hà Đình Đức đã nhận được hồi âm. Ông Chủ tịch thành phố đã gửi thư cho ông Đức kèm quyết định của UBNDTP Hà Nội (số 7836/QĐUB) đưa công trình khu tưởng niệm đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói năm 1944-1945 vào danh sách quản lý di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh của Hà Nội.

Qua ông Đức, cũng được biết, lãnh đạo thành phố quyết định lấy 15/7 âm lịch hằng năm là ngày tưởng niệm. Thành phố cũng giao cho ban quản lý nghĩa trang nghiên cứu, thiết kế, xây dựng Hợp Thiện thành khu chứng tích nạn đói năm Ất Dậu. Trước mắt sẽ trùng tu, tôn tạo khu vực hiện có (trên diện tích 120 m2 gồm một tấm bia dựng năm 1951, bể xương hàng vạn hài cốt). 


PGS Hà Đình Đức và thủ từ Đặng Văn Tuyến (ảnh chụp 2012)

Tiếp đó, sẽ quy hoạch lại khu vực, mở đường và giải tỏa một số hộ dân. Rồi sẽ tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn để xây dựng một tượng đài tưởng niệm.

Thế thì khó có chuyện quên bẵng được?

Muộn còn hơn không?

…Bẵng đi một dạo, gặp lại ông Đức tình cờ hỏi việc xây khu di tích nạn đói, ông cười cười chịu chả thể biết được rồi buông câu vui Hà Nội là không vội được đâu. 

Nhớ một năm mùa xá tội vong nhân, ông Đức đưa tôi xuống lại Vĩnh Tuy. Lần này may mắn qua ông Đức tôi được gặp ông Đặng Văn Tuyến là người chuyên lo hương khói cho khu di tích.

Năm 1951, nghệ sỹ Võ An Ninh chụp quang cảnh buổi lễ quanh tấm bia căm thù thì một năm sau, ông Tuyến mới cất tiếng khóc chào đời ở ngôi nhà gần nghĩa trang Hợp Thiện. Ở chiến trường Bình Trị Thiên từ năm 1970, đối mặt với bom đạn chết chóc, chiến sĩ lái xe Đặng Văn Tuyến chưa hề có cảm giác xương sống mình tự dưng buốt lạnh cùng cảm giác lạ lùng khó tả như lần ấy. 


Cổng vào mới xây. Ảnh: Xuân Ba

Cái lần ba cậu sinh viên Trường Kiến trúc đến thắp hương đo đạc để thực hiện đề tài Không gian cho nhà tưởng niệm đồng bào chết đói. Ngó những làn khói hương vút lên thẳng tắp, ông Tuyến thốt nhiên rùng mình… Mặc dù ông đã sống ở khu vực nghĩa trang từ bé đến lớn. 

Đi bộ đội rồi cũng ở bên khu nhà mồ này. Thế mà lần này như có hàng trăm cặp mắt vô hình chiếu cái nhìn năn nỉ khẩn cầu về phía ông. Quyết định tình nguyện giữ chân hương khói cho khu nhà mồ của ông Tuyến đã gây bao ngạc nhiên cho những người thân. Năm 2005, được sự đồng ý của chính quyền sở tại, ông Tuyến đứng ra đảm nhận công việc trông coi, nhang khói ngôi mộ tập thể ở khu nghĩa trang này.

Ngồi chuyện với người từng nhiều năm coi sóc một nghĩa trang mà có lẽ là duy nhất ở nước mình thấy có lắm cái lạ. Heo hút khó tìm nhưng nghĩa trang luôn có khách thăm viếng, khói hương. Xôm tụ vẫn là những ngày lễ lớn, những dịp giáo dục truyền thống. 

Lạ là rất nhiều khách thăm người Nhật, khi đi đoàn khi lẻ. Họ là nhà nghiên cứu, học giả, khách du lịch. Có cả những cụ đã cao niên. Ông Tuyến hỏi chuyện qua người phiên dịch được biết có người là lính Nhật đã từng tham chiến ở Việt Nam và Đông Dương. Từ khi có cuốn sổ cảm tưởng, hơn 100 trang ghi cảm tưởng thì có đến 60 khách thăm là người Nhật.

Nhiệm kỳ sau ông Chủ tịch Nguyễn Quốc Triệu đã được 3 năm… Một hôm tôi nhận ra chất giọng hồ hởi của PGS Hà Đình Đức qua điện thoại.

Ông Đức đón tôi ngay ở nghĩa trang để cùng chứng kiến sự kiện phá dỡ giải tỏa quanh khu di tích. Ngó khu di tích tự dưng thoáng hẳn nhất là một lối đi thông ra phía đường Minh Khai mà trước đây còn bít rịt những nhà cửa công, tư thấy công sức tiền của thành phố bỏ ra chả phải là nhỏ!
Và mãi mất hơn 2 năm, sau sự kiện giải tỏa, mới có cái giấy mời khánh thành khu nhà bia. 

Bữa khánh thành, mắc việc xa không về kịp. Sau rằm tôi mới có dịp đáo qua dâng hương.

…Từ ngõ 349 lối đường Minh Khai đi sâu vào đã òa thoáng ra một khoảng không gian. Hóa ra đề nghị của PGS Hà Đình Đức về phương án làm con đường ít tốn kém về đền bù giải toả và Khu tưởng niệm sẽ rất khang trang như trong đơn thư ông viết gửi Chủ tịch thành phố 13 năm trước đã thành hiện thực. 

Tôi quên chưa kịp hỏi kinh phí giải tỏa đền bù nhưng chắc cũng phải bộn? Có điều hình như kinh phí chưa có hay chưa kịp giải ngân nên con đường rộng hơn 10 mét, dài cũng vài chục mét này chưa được trải nhựa còn lổn nhổn gập ghềnh. Lối quẹo vào khu tưởng niệm cũng chưa kịp tôn, nước mưa đọng thành vũng. 

Nhưng khung cảnh khu tưởng niệm đã khác trước nhiều lắm. Đầu tiên là tam quan cổng vào thiết kế cũng nhã. Nóc là bức hoành chữ Việt Hợp Thiện Linh Đài. Hai bên có đề hai hàng câu đối cũng chữ ta nghe nói trích ra từ bài văn tế của ông Vũ Khiêu viết từ tháng 3- 1945 Hai triệu vong linh oan khí tối đen trời đất nọ/ Muôn đời bất tử anh linh giữ vững nước non này.

Khoảng sân khu nhà bia lát lại phẳng phiu. Các bậc dẫn lên bia được ốp bằng gạch. Tấm bia chĩnh chiện mang dòng chữ trong tấm ảnh cụ Võ An Ninh dường như được chỉnh trang hoành tráng hơn nhưng may vẫn thuận mắt? Rồi hệ thống tường bao có phác trên đó những họa tiết dễ chịu…

Ấn tượng vẫn là bể xương, dạo tôi tới sần sùi xám lạnh bê tông nay ốp gạnh nâu đỏ trang trọng. Nhô nhỉnh phía bên trái là điện thờ hai tầng lầu xây cất cũng nhã dùng để thờ Phật. Lại có bể hóa vàng ở một góc tường bao. 

Những ồn ào phố xá lui tít ngoài kia. Ông Tuyến bữa nay đi vắng có anh con trai cùng hai cháu nội của ông Tuyến trực. Anh hướng dẫn khách dâng hương ở chân bia và bàn thờ Phật. Không gian thoang thoảng hương ngâu. 

Bây giờ tôi mới để ý đến đôi ngâu chầu vào bia đang rộm hoa vàng. Và cả cây ngọc lan bên góc bể xương mà anh con trai ông Tuyến nói bố cháu trồng… 

Nán lại chuyện với một cụ bà trên Bưởi và tốp khách vừa dâng hương hoa quê ở Nam Định. Hỏi sao nơi kín đáo này bà con lại biết? Ngạc nhiên khách cởi mở là nghe lâu rồi nay mới đến được. Mà tivi bữa trước có đưa…

Ngồi trong điện thờ, thoáng câu trong văn tế thập loại… của cụ Nguyễn Du ngó ra sân nhà bia thấy tiết tháng bảy không mưa dầm sùi sụt nhưng vẫn âm u lắc thắc. Không gian không toát hơi may mà đống xương khô của người Việt mình 69 năm trước chẳng lạnh buốt bởi đã được tém tó đậy điệm cẩn thận trang trọng ở nghĩa trang Hợp Thiện cùng Khu tưởng niệm thành phố mới vừa xây.   

Có lẽ cũng chẳng phải Hà Nội không vội… Mà là chậm nhưng chắc? Vậy nên nếu có những cái vội thở dài sốt ruột nào đó cũng phải nén lại về công trình tâm linh từng nhọc nhằn suốt 13 năm mới tạm gọi hoàn thành này?

Nguồn: Xuân Ba - Tiền Phong

 

 

 

Các bài mới
Bắp miệt Cồn (11/03/2024)
Ký ức gò đồi (19/12/2023)
Các bài đã đăng
Với Thạch Lam (06/08/2014)
Bạn bè tôi (25/07/2014)
Nhớ Phùng Thăng (11/07/2014)