Hans Christian Andersen (1805-1875) là nhà văn Đan Mạch nổi tiếng thế giới với những truyện cổ tích được dịch ra 125 thứ tiếng. Những truyện cổ tích dễ hiểu đầy ắp sự trong trẻo và sáng tạo của ông là đôi cánh giúp trí tưởng tượng của trẻ em bay xa, đồng thời cũng chứa đựng những bài học bổ ích về lẽ sống, tình yêu, sự kiên cường và lòng quả cảm cuốn hút các bạn đọc ở tuổi trưởng thành.
Nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam đã lớn lên cùng những câu chuyện cổ tích của Andersen, như truyện Nàng tiên cá, Chú lính chì dũng cảm, Cô bé bán diêm... Trân trọng giới thiệu với bạn đọc một truyện cổ tích dành cho mọi lứa tuổi của Hans Christian Andersen, đại văn hào được nhận xét là “người có thể tìm thấy ngọc trai ở bất kỳ cống rãnh nào”. Truyện cổ tích này nằm trong cuốn Truyện cổ Andersen toàn tập do Nhà xuất bản Wordsworth của Anh ấn hành năm 1997.
Nguyễn Bích Lan dịch và giới thiệu
HANS CHRISTIAN ANDERSEN
Đứa con dưới mộ
Truyện ngắn
Trong đau đớn, cô đánh mất lòng tin vào Chúa, và những ý nghĩ u ám về cái chết vĩnh viễn xuất hiện trong cô, ý nghĩ rằng con người rồi sẽ thành cát bụi, và rằng chết là hết.
Đau buồn bao trùm khắp ngôi nhà ấy, tràn ngập trong mỗi trái tim. Đứa con út, một bé trai bốn tuổi, niềm vui và niềm hi vọng của cha mẹ bé, vừa mới qua đời. Gia đình họ còn có hai đứa con gái, đều xinh xắn, ngoan ngoãn, nhưng dường như đứa con đã mất đáng yêu nhất, đặc biệt nó lại là con út, và là con trai duy nhất.
Đó quả là một thử thách to lớn đối với gia đình họ. Hai người chị khóc thương em và không cầm lòng được trước sự đau buồn của cha mẹ mình. Người cha cúi gục đầu, còn người mẹ thì hoàn toàn suy sụp trước nỗi đau mất mát.
Trong một thời gian, ngày cũng như đêm, cô bận lo cho đứa con trai ốm đau, đã chăm sóc, nâng giấc, bế ẵm nó, cô cảm thấy nó là một phần của con người mình. Cô không thể hiểu được rằng con mình đã chết, và nó phải nằm trong quan tài, yên nghỉ trong lòng đất.
Cô cứ nghĩ Chúa không thể mang nó đi khỏi cô được, và khi điều đó xảy ra, khi đã chắc chắn rằng mình mất đứa con yêu, cô nói trong nỗi đau thiêu đốt: “Chúa không biết việc này đâu. Người có những kẻ tôi tớ vô lương tâm ở dưới trần gian này, những kẻ hành động theo ý thích của bản thân, không buồn đoái hoài đến những lời nguyện cầu của một người mẹ”.
Trong đau đớn, cô đánh mất lòng tin vào Chúa, và những ý nghĩ u ám về cái chết vĩnh viễn xuất hiện trong cô, ý nghĩ rằng con người rồi sẽ thành cát bụi, và rằng chết là hết. Nhưng những ý nghĩ đó không mang đến cho cô sự an ủi, cô không thể bám víu vào bất cứ điều gì, và cô chìm trong vực thẳm khôn cùng của sự tuyệt vọng.
Trong những giờ khó khăn nhất cô không còn có thể khóc được nữa, và cô không nghĩ đến hai đứa con gái mà mình đang có. Những giọt nước mắt của chồng rơi trên trán cô, nhưng cô không nhìn anh. Cô chỉ nghĩ đến đứa con đã qua đời, toàn bộ ý nghĩ và sự tồn tại của cô đều gắn với nó, cô nhớ lại mọi kỷ niệm về đứa bé, nhớ mọi lời nói ngây thơ và buồn cười mà nó đã thốt ra.
Ngày đưa tang đã đến. Những đêm trước đó, người mẹ không ngủ, nhưng vào rạng sáng hôm ấy cô thấm mệt, thiếp đi, trong khi đó chiếc quan tài được đưa vào một căn phòng ở góc xa của ngôi nhà, và được đóng đinh để cô không nghe thấy tiếng gõ búa.
Khi cô tỉnh dậy, muốn được nhìn thấy con, chồng cô nói: “Nắp quan tài đã được đóng lại rồi. Cần phải làm thế em ạ”.
“Đến Chúa còn nghiệt ngã với tôi thì làm sao con người lại tử tế hơn được chứ?” - cô vừa nói vừa khóc nức nở.
Chiếc quan tài được đưa ra nghĩa địa. Người mẹ với nỗi đau khôn nguôi ngồi với hai đứa con gái nhỏ. Cô nhìn các con mình mà như không thấy chúng, bởi mọi ý nghĩ của cô không dành cho những người thân đang sống nữa. Cô đã đầu hàng trước nỗi đau, và nỗi đau quăng quật cô như sóng biển xô một con tàu không có la bàn, không có bánh lái.
Ngày đưa tang đã trôi qua và những ngày của u ám và nỗi đau khổ mệt mỏi kéo đến, ngày nào cũng như ngày nào. Với đôi mắt rớm lệ và cái nhìn u sầu, hai đứa con gái và người chồng nhìn cô, người mà giờ đây không nghe những lời an ủi của họ; quả thực, làm sao họ có thể nói những lời an ủi khi mà chính bản thân họ cũng đang rũ xuống vì đau buồn?
Cô thức suốt, cứ như thể cô không biết ngủ. Tuy vậy chồng cô bây giờ là người bạn tốt nhất, người truyền sức mạnh cho thể xác của cô, truyền sự bình an cho tinh thần của cô. Mọi người thuyết phục cô tìm chuyên gia tư vấn và cô nằm im, không phản ứng trước đề nghị đó, cứ như thể cô đã ngủ say.
Một đêm chồng cô nghe thấy cô thở đều, và tin rằng cô đã tìm được sự khuây khỏa và nguôi ngoai. Anh chắp tay cầu nguyện và mau chóng chìm vào giấc ngủ sâu, bởi vậy anh không biết vợ mình đã ngồi dậy, mặc quần áo và lặng lẽ bước ra khỏi nhà, đi đến cái nơi mà mọi ý nghĩ của cô luôn hướng tới - mộ của đứa con trai.
Cô bước qua vườn nhà, qua những cánh đồng, nơi có lối mòn dẫn đến nghĩa trang của nhà thờ. Không ai nhìn thấy cô và cô cũng chẳng nhìn thấy một người nào.
Đó là một đêm đầy sao, thời tiết thật dễ chịu, không gian tĩnh mịch, hiền hòa, đó là vào đầu tháng chín.
Cô bước vào nghĩa trang, đứng trước ngôi mộ nhỏ trông giống như một bó hoa lớn tỏa hương thơm ngát. Cô ngồi xuống, cúi gục đầu trước mộ, như thể cô có thể nhìn thấy đứa con yêu trong lòng đất, đứa bé trai có nụ cười hiện ra sống động trước mắt cô - sự dịu dàng trong ánh mắt nó ngay cả khi nó ở trên giường bệnh, cô không bao giờ quên.
Ánh mắt ấy nói biết bao điều khi cô cúi xuống bên nó và nắm lấy bàn tay bé xíu không còn sức lực để giơ lên! Giờ đây cô ngồi bên mộ con như ngồi bên nôi của nó, nhưng những giọt lệ của cô tuôn trào, rơi xuống nấm mồ nhỏ.
“Cô có thể xuống dưới đó và ở bên con của cô” - một giọng nói khẽ vang lên bên tai cô, một giọng nói nghe rất rõ ràng và sâu, vọng đến tận tim cô.
Cô ngước mắt lên và thấy hình hài của một người đàn ông mặc áo choàng đen mang mũ trùm đầu được kéo xuống che hết khuôn mặt đang đứng ở bên cạnh mình.
Dẫu vậy cô vẫn có thể thấy được khuôn mặt của người đó bên dưới lớp mũ. Đó là một khuôn mặt nghiêm trang nhưng đáng tin cậy, và đôi mắt ông ánh lên ánh sáng lấp lánh của tuổi trẻ.
“Xuống với con tôi?” - cô nhắc lại, và trong lời nói của cô có sự van xin tuyệt vọng.
“Cô có dám đi theo tôi không? - hình hài kia hỏi - Tôi là Thần Chết”.
Cô gật đầu đồng ý. Sau đó bỗng nhiên cứ như thể mọi vì sao trên trời đều tỏa sáng cùng ánh trăng rằm. Cô nhìn thấy những màu sắc khác nhau của những bông hoa trên ngôi mộ, và mặt đất dần dần được kéo lên như một tấm chăn bồng bềnh và cô chìm xuống, còn Thần Chết choàng tấm áo đen lên người cô, màn đêm bao trùm quanh cô, đêm của cái chết, và cô chìm xuống độ sâu mà chiếc mai của người đào huyệt không thể chạm tới, còn nghĩa địa tựa như một mái che phía trên đầu cô.
Một góc của tấm áo choàng được lật ra và cô đứng trong một hành lang lớn trải rộng ra xung quanh trông thật thích mắt. Đó là buổi chạng vạng. Nhưng trong chốc lát con trai của cô xuất hiện, áp mặt vào ngực cô, cười với cô và trong khoảnh khắc ấy đứa bé trông xinh đẹp hơn bao giờ hết.
Cô kêu lên, nhưng tiếng kêu của cô không có âm thanh bởi vì một giai điệu âm nhạc tuyệt vời nghe rất gần chỗ cô, và sau đó xa dần rồi tắt hẳn. Chưa bao giờ cô nghe thấy những giai điệu ấy, chúng vọng tới từ phía bên kia bức rèm lớn màu đen ngăn hành lang với không gian bao la của sự vĩnh hằng.
“Mẹ yêu!” - cô nghe thấy tiếng con mình nói.
Đó là giọng nói rất đỗi thân thương, và những nụ hôn nối tiếp nhau trong niềm hạnh phúc vô bờ, rồi con cô chỉ tay về phía tấm rèm màu đen.
“Trên trái đất không đẹp như vậy. Mẹ thấy không, mẹ - mẹ có nhìn thấy tất cả không? Đó là hạnh phúc!”.
Nhưng người mẹ không nhìn thấy những gì mà đứa con chỉ - không nhìn thấy gì hết ngoài đêm tối. Cô nhìn bằng đôi mắt của người trần mắt thịt và không thể thấy được những gì con cô, người mà Thượng Đế gọi về bên Ngài, đã nhìn thấy. Cô có thể nghe thấy tiếng nhạc, nhưng không nghe thấy lời - lời mà cô sẽ tin.
“Bây giờ con có thể bay, mẹ ạ. Con có thể bay cùng với những bạn nhỏ hạnh phúc khác trong sự hiện diện của Đấng Toàn Năng. Con sẵn sàng bay, nhưng nếu mẹ khóc như bây giờ thì mẹ có thể không nhìn thấy con đâu, nhưng con sẽ rất hạnh phúc khi được bay. Bây giờ con bay được chứ mẹ? Và mẹ sẽ sớm đến với con, đúng không, mẹ yêu?”.
“Ôi, hãy ở lại! Hãy ở lại! - người mẹ van vỉ - Ở lại thêm một chút nữa thôi con, mẹ muốn được nhìn thấy con, hôn con và ôm con thêm một lần nữa”.
Và cô ôm hôn con. Thế rồi có ai đó gọi tên cô ở phía trên - gọi bằng giọng buồn rầu. Gì thế nhỉ?
“Con có nghe thấy tiếng gì không? - cô hỏi con trai - Có lẽ bố đang gọi đấy”.
Và trong vài giây cô nghe thấy tiếng thở dài giống như tiếng khóc nghẹn ngào của trẻ con.
“Các chị của con đấy - đứa trẻ nói - Mẹ, mẹ có chắc là mẹ không quên bố và các chị của con không?”.
Và cô nhớ ra những người thân mà cô đã bỏ lại. Một nỗi sợ khủng khiếp dâng lên trong cô. Cô nhìn vào đêm tối và nhìn lên phía trên đầu cô, nơi những hình hài mờ mờ đang bay lướt qua.
Dường như cô nhận ra vài người trong số đó. Họ bay qua hành lang của Thần Chết, bay về phía tấm rèm màu đen và biến mất. Liệu chồng và hai đứa con gái của cô có bay về hướng đó không? Không, tiếng thở dài và tiếng khóc than của họ vẫn văng vẳng ở phía trên: vì đứa con đã qua đời mà cô hầu như đã quên họ!
“Mẹ, chuông của Thiên Đường đang reo đấy - con trai cô nói - Mẹ, bây giờ mặt trời sẽ mọc mẹ ạ”.
Và ánh sáng chói lòa từ trên cao rọi xuống. Đứa trẻ biến mất, còn cô bị cuốn lên phía trên. Không khí xung quanh cô thật lạnh và cô nhấc đầu lên, nhận ra mình đang nằm trong nghĩa địa, trên mộ của con trai.
Nhưng trong giấc mơ Thượng Đế đã để lại một nguồn sáng trong tâm hồn cô, và cô quỳ xuống, cầu xin được tha thứ vì đã níu giữ một con người, không để người đó thực hiện chuyến bay vĩnh hằng của mình, và vì cô đã quên nghĩa vụ đối với những người thân đang sống.
Khi cô nói những lời cầu xin sự tha thứ đó, cứ như thể trái tim cô được soi sáng. Sau đó mặt trời xuất hiện phía trên đầu cô, và một chú chim nhỏ cất tiếng hót vang, tiếng chuông nhà thờ ngân lên báo hiệu giờ làm lễ buổi sáng bắt đầu.
Mọi thứ xung quanh cô thật thánh thiện, và trái tim cô đã được kiểm soát. Cô nhận ra lòng nhân từ của Thượng Đế, nhận ra bổn phận mà mình phải thực hiện, và cô trở về nhà trong tâm trạng háo hức. Cô cúi xuống bên chồng trong khi anh vẫn đang ngủ say.
Nụ hôn ấm áp, nồng nàn của cô làm anh tỉnh giấc, và những lời chân thành của tình yêu được thốt ra từ đôi môi của cả hai người. Trong giây phút đó con người cô toát lên sự dịu dàng và mạnh mẽ nhất mà một người vợ có thể có, và cô nói ra những lời đầy an ủi. Ý Chúa luôn luôn là tốt nhất.
Rồi chồng cô hỏi: “Em có được sức mạnh, sự an ủi này từ đâu vậy?”.
Cô hôn anh, hôn các con của mình và nói: “Sức mạnh và sự an ủi này đến từ Thượng Đế, thông qua đứa con trai đã qua đời của chúng ta”
Nguồn: Tuổi trẻ Cuối tuần