HOÀNG PHƯỚC
Ngày 26/3/1975, tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế trực thuộc Trung ương) hoàn toàn giải phóng. Từ căn cứ kháng chiến, bộ máy của chính quyền cách mạng lâm thời trở về Huế tiếp quản thành phố.
Cùng với việc củng cố tổ chức, thiết lập các đội dân quân tự vệ, trấn áp bọn phản loạn, giải quyết những vấn đề của hậu chiến, với các nhiệm vụ cấp bách khác để giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân vừa thoát ra khỏi cuộc kháng chiến chống Mỹ khốc liệt kéo dài hơn hai mươi năm đằng đẵng. Cùng với bộ máy cấp tỉnh, cuối tháng 4/1975, chính quyền các huyện đồng bằng đã nhanh chóng tổ chức đi vào mọi hoạt động. Đến thời điểm ấy, trên toàn tỉnh Thừa Thiên Huế chính quyền cách mạng đã được thiết lập ở 110 xã, 19 phường, 632 thôn và 47 khóm vạn đò1.
Ngày 26/3/1975, bình minh ló rạng, nắng “đẹp vô cùng” đã rải vàng lên khắp đất Huế. Thế mà đã 50 năm trôi qua.
Tháng 3 năm 2025 này, người Huế phấn khởi kỷ niệm nửa thế kỷ ngày đất nước hòa bình thống nhất, cái ngày mà con dân hai miền Nam - Bắc về chung một nhà. Và cũng là dịp để chúng ta nhìn lại 50 năm nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, rà phá bom mìn, đào kênh dẫn thủy, chung tay xây dựng quê hương, từng bước ổn định và trưởng thành để một lần nữa định danh lại vị thế cho Huế trên bản đồ hành chính Việt Nam và thế giới. Có thể nói, nửa thế kỷ trôi qua, một thế hệ công dân mới sinh ra đúng cái ngày hòa bình ấy giờ đã là lớp người “tri thiên mệnh”, nhiều người trở thành những “nhà quản lý, nhà giáo, nhà báo, nhà văn, kỹ sư, bác sĩ…” và cũng có nhiều người giờ thành “ông nọ bà kia” trong bộ máy chính quyền… đã đến lúc bình tâm ngoái lại, nhìn về một quá khứ oai hùng nhưng cũng đầy bi thương với sự chiêm nghiệm thâm sâu tận cõi lòng, một lối tỉnh thức tuệ giác tri ân các thế hệ tiền nhân, để mà học hỏi, soi rọi lại mình, để cho “chân cứng đá mềm” vững bước đi lên, để xây dựng Huế trở thành đô thị di sản văn hóa hiện đại vừa cổ kính lại giàu sắc thái nhân văn. Và chỉ cần một chữ Huế thôi cũng đủ nhạc điệu gồm cả đất Thừa Thiên xưa rồi, kể từ non cao ngút ngàn Trường Sơn xuôi về tận đầm phá Tam Giang - Cầu Hai nhập hòa vào biển cả mênh mông ôm trọn một vùng phù sa văn hóa làm nên diện mạo cho một cuộc đất sáng xanh linh diệu. Huế đang phát triển từng ngày.
Nhưng để có thành quả ấy hôm nay, Huế đã phải trải qua một thời kỳ dài gian khổ, đổ biết bao xương máu đầy nỗi bi thương khó ai mà quên được.
Thế hệ chúng tôi sinh ra vào thời chiến tranh loạn lạc, là cái gạch nối máu thịt khi đất nước còn tạm thời chia làm hai miền. Để có ngày hòa bình, thống nhất giang sơn, chúng tôi hiểu cái giá phải trả bằng cả máu xương của bao lớp người xung phong ra trận, bao mẹ già tần tảo thu gom hạt lúa củ khoai trên đồng ruộng gửi ra chiến trường nuôi quân, những người vợ trẻ chờ chồng tháng ngày tựa cửa mòn mỏi ngóng trông, nhiều người ra đi trên các nẻo đường đánh giặc không ai biết mặt và nhiều người đến nay vẫn còn nằm lại đâu đó trong lòng đất mẹ Việt Nam.
Từ miền Bắc tập kết, chúng tôi hăm hở trở về quê hương sau ngày Huế giải phóng. Trên các nẻo đường trở về vẫn chưa tan hết mùi thuốc súng, đồng bào Huế từ các vùng chiến sự khác nhau, đã có hàng vạn người hồi cư trong tình trạng không nhà cửa, thiếu thốn lương thực và điều kiện làm ăn sinh sống. Thế mà ai cũng rất mừng, vì “Dù có khó khăn vất vả trước mắt nhưng hết chiến tranh rồi thì ai cũng vui sướng, cuộc sống mới lần hồi rồi sẽ vượt qua thôi”. Trước tình cảnh ấy, chính quyền cách mạng đã nỗ lực hỗ trợ trong điều kiện có thể để bà con trở về quê cũ hay tìm một nơi thích hợp tạm thời ổn định trước khi có chủ trương đưa dân đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Một báo cáo về “Tình hình và nhiệm vụ” của Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế vào tháng 6/1975, cho thấy: “Nền kinh tế do chế độ cũ để lại trên địa bàn Huế hầu như không có gì. Thu nhập chính của người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp, trong khi ruộng đất phần lớn bị bỏ hoang hóa, bị bom mìn phong tỏa, số ruộng đất canh tác cho năng suất rất thấp; hệ thống kênh mương, tưới tiêu (hầu như) không có, do đó thường xuyên bị hạn hán về mùa hạ, ngập úng vào mùa mưa lũ. Tỷ lệ người lao động không có việc làm rất cao, đời sống nhân dân nghèo khó khốn cùng”…
Song song với việc tiếp quản, tấn công truy kích địch, ổn định trật tự trị an, chính quyền cách mạng đã tổ chức cho nhân dân học tập 10 chính sách của Chính phủ Cách mạng lâm thời và 6 thông cáo của Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên Huế, tập trung vào các vấn đề giữ gìn an ninh trật tự, thu nạp vũ khí, thu hồi, quản lý các cơ quan, công sở của Mỹ và chế độ cũ, ghi báo nhân viên của chế độ cũ trình diện, khai báo.
Trong thời gian ngắn, Thừa Thiên Huế đã triển khai nhanh gọn công việc ghi báo, đăng ký của chế độ cũ; thực hiện triệt để các thông cáo của Chính phủ Cách mạng lâm thời và của Ủy ban Nhân dân Cách mạng tỉnh; phát động quần chúng tố giác những phần tử lẩn trốn…
Tính đến cuối tháng 5/1975, tổng số binh lính, viên chức chế độ cũ toàn tỉnh đã ra trình diện chính quyền cách mạng là 40.667 người. Trong đó bao gồm từ nhân viên dân vận chiêu hồi, bình định, cảnh sát, nghĩa quân, bảo an, chủ lực, sĩ quan từ chuẩn úy lên đến đại tá… Đơn cử, chỉ hai địa phương là thành phố Huế có 9.843 đối tượng, sau khi phân loại có 1 đại tá, 3 trung tá, 13 thiếu tá, 78 đại úy, 114 trung úy, 356 thiếu úy và chuẩn úy, 2.044 hạ sĩ quan, 58 sĩ quan cảnh sát, 1.052 cảnh sát viên, 656 công chức, viên chức chế độ cũ. Đảng phái phản động thì chỉ mới ra trình diện 267 tên2. Riêng huyện Hương Thủy có 6.509 đối tượng ra trình diện, trong đó có 138 sĩ quan từ chuẩn úy đến thiếu úy, 3.687 lính chủ lực, 627 lính bảo an, 806 lính nghĩa quân, 605 tự vệ, 349 ngụy quyền, 314 cảnh sát, 62 nhân viên bình định và 57 nhân viên dân vận chiêu hồi3.
Số viên chức, binh lính chế độ cũ ra trình diện được các cấp chính quyền phân loại và tổ chức quản lý, tiến hành tổ chức học tập, cải tạo tại xã, huyện; một số đưa đi quản huấn dài hạn trong tỉnh, nhìn chung họ đều có chiều hướng tốt. Đây chính là yếu tố quan trọng đảm bảo sự ổn định tình hình chính trị, quần chúng nhân dân tin tưởng vào chính sách khoan hồng của Đảng, vào chính quyền cách mạng, ra sức bảo vệ thành quả mà cách mạng đem lại, bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế - xã hội, hàn gắn vết thương chiến tranh…
Trước khí thế tiến công và mừng thắng lợi của cách mạng, ngày 21/4/1975, tại Quảng trường Ngọ Môn, nhân dân toàn tỉnh Thừa Thiên Huế nô nức tham dự cuộc mít tinh trọng thể chào mừng quê hương hoàn toàn giải phóng. Tiếp đó, ngày 15/5/1975, tại thành phố Huế hơn 50.000 đồng bào toàn tỉnh tham dự cuộc mít tinh lớn mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước hoàn toàn thống nhất.
Sau ngày đất nước hòa bình, giang sơn thống nhất, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước và Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc sáp nhập ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế thành một tỉnh Bình Trị Thiên rộng lớn, kể từ Hoành Sơn giáp giới Hà Tĩnh kéo đến đỉnh đèo Hải Vân cận kề Nam Ô, Đà Nẵng. Ngày 1/5/1976, tại Quảng trường Phu Văn Lâu, trước hàng chục vạn đồng bào, bộ máy chính quyền nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên chính thức ra mắt. Đúng sáng hôm ấy, báo Dân - Cơ quan ngôn luận của Tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên ra số đầu tiên, đánh dấu cái mốc thời gian từ nay báo chí cũng đã “về chung một nhà”.
Mới chỉ mấy tháng sau ngày giải phóng, người ta quen dần và thích nghi với những chính sách của chế độ mới. Nhiều nhiệm vụ khẩn trương triển khai, như: Về sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, ruộng đất, về tổ chức lao động, về phân bón, giống, thủy lợi, công cụ và sức kéo, về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vấn đề trồng rừng, về giáo dục, y tế, vệ sinh phòng bệnh; tăng cường công tác quốc phòng, trị an… Nhờ vậy mà vết sẹo trong lòng cũng dần phôi phai ẩn vào ký ức. Tiếng súng chiến trường đã bặt âm nhưng đâu đó tiếng bom mìn thì vẫn nổ, hàng ngày vẫn có người cấy cày, nạo vét kênh mương chết vì bom mìn của giặc để lại trong đất đai ở nhiều cánh đồng, ruộng nương…
Cuộc sống những ngày đầu quê hương mới giải phóng còn nhiều gian khổ, thiếu thốn đủ thứ, người ta có thể chịu đựng được tất cả để tồn tại và vượt qua mọi gian khổ ấy vì sự vô giá của hai chữ Hòa Bình. Nhưng có một sự thức ngộ rất khó mà quên dù đã rất cố quên đi là về cái đói - cả xã hội đói ăn hàng ngày sau giải phóng đã trở thành vấn đề chính trị cấp bách của những người lãnh đạo. Cái đói ăn dày vò tâm can, làm suy nhược cơ thể, tiêu diệt ý chí con người ta mà ngay từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Bác Hồ đã gọi nó là giặc - một loại “Giặc đói”! và ký ức về đói ăn kéo dài nhiều tháng ngày ấy với tôi không thể nào quên được. Mỗi khi nhớ lại giây phút nuốt vội miếng khoai củ sắn hay nắm hạt bo bo lúc đói lòng là nước mắt tôi cứ tự dưng trào ra không dừng được. Cái đói có thể làm người ta kiệt sức, đôi khi ớn hèn nhiều thứ. Chính vì sự cứu đói cho nhân dân cả tỉnh, cả nước mà ngay sau giải phóng nhiều chủ trương của Đảng, Nhà nước đã kịp thời ban ra. Chẳng hạn như năm 1976, Hương Thủy là huyện tổ chức mô hình tập đoàn sản xuất ngay sau giải phóng, tạo tiền đề cho việc xây dựng mô hình hợp tác xã về sau.
Việc Hương Thủy tổ chức đưa dân lên khu kinh tế mới Khe Sòng để về sau thành lập ra xã Phú Sơn; đưa nhân dân đi xây dựng kinh tế mới ở Nam Đông, A Lưới, chiến khu Dương Hòa, sông Hai Nhánh và vùng trung du tiếp tục được triển khai… Huyện Phong Điền tổ chức đưa dân các xã Khu kinh tế mới Ồ Ồ (dân Phong An, Phong Chương, Phong Bình) Phong Điền; (dân Quảng Vinh, Quảng Phú, Quảng Ngạn, Quảng Lộc, Quảng Lợi) Quảng Điền, lên xây dựng Khu kinh tế mới Ồ Ồ đến năm 1981, dân cư vùng này đông đúc đã lập ra xã Phong Xuân trù phú…
Có thể nói, lo cái ăn cho toàn xã hội là cả vấn đề trọng đại và cấp bách của chính quyền cách mạng sau giải phóng. Khắp nơi người ta cày xới trồng khoai ươm sắn, gieo hạt hoa màu trái vụ. Bất cứ chỗ nào, dù chỉ một khoảnh đất bỏ hoang là được cấy trồng, nhiều mảnh vườn, nhiều khoảng đất trong Thành nội cổ kính cạnh cung vua cũng được tận dụng trồng trỉa hoa màu để cứu đói.
Trồng gần hết đất, người ta lại tổ chức sản xuất trồng trỉa khoai sắn, lạc đậu ở các nơi rất xa, như ra tận Đầu Mầu, Cam Lộ cách trung tâm Huế trên trăm cây số. Chi phí cho xăng xe đi lại tốn kém vô cùng. Nhưng không ai giúp ta được, chỉ có hạt bắp, củ khoai củ sắn mới giải quyết được nạn “giặc đói” đang hoành hành lúc ấy.
Tôi nhớ mãi ông Bùi San, người cán bộ cách mạng gia nhập Đảng Cộng sản từ năm 1930, lúc đó là Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Bình Trị Thiên (từ năm 1976 đến 1982), đi đâu, chỗ nào bác cũng luôn đặt vấn đề như mệnh lệnh là “lo cái ăn cho dân” lên trước. Cả Đảng bộ tỉnh tích cực thực hiện “không để hoang một tấc đất. Chỗ nào cũng có thể trồng rau màu, khoai sắn là trồng trỉa ngay”. Có lần, một buổi sáng vào năm 1978, bác Bùi San xuống nhà bếp tập thể ăn sáng cùng anh em trong cơ quan tỉnh ủy. Nói ăn sáng cho oai chứ thực ra mỗi người chỉ được chia hai khúc sắn tăng gia trên Dương Hòa đưa về; ông mở lòng trò chuyện với anh em nhân viên mà như nói với chính mình: “Người ta gọi tôi là ông “Bùi Sắn”. Không sao! Dù ai đó có nói gì sau lưng tôi, kể cả nói trước mặt đi nữa thì với tôi “Bùi gì” cũng được nếu đồng bào có củ sắn củ khoai ăn cầm hơi khi đói lòng, để mà vượt qua những ngày khó khăn “thiếu cái ăn của cả tỉnh”.”
Nửa thế kỷ trôi qua. Bây giờ Huế đã khác trước, kinh tế phát triển, xã hội văn minh, cơm độn sắn độn ngô chỉ còn là huyền ức cổ tích của những người xưa cũ.
Mùa xuân năm 2025 này, tỉnh Thừa Thiên Huế chính thức trở thành đơn vị hành chính mới: Thành phố Huế trực thuộc Trung ương. Đây cũng là dịp để đồng bào ta chung sức hòa ca khúc khải hoàn kỷ niệm 50 năm ngày Huế giải phóng. Những ký ức vụn của tôi (có thể của nhiều người) nhớ lại một thời gian khổ nhưng cũng rất đỗi tự hào về các thế hệ đi trước, những người đã hy sinh vì đất nước này để có ngày Hòa Bình vững bền cho cây trái nở hoa.
H.P
(TCSH56SDB/03-2025)
-----------------------
1 Địa chí Thừa Thiên Huế - Phần Dân cư và Hành chính, Nxb. Thuận Hóa, tr.458.
2 Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên Huế, Báo cáo của Thường vụ Tỉnh ủy trước Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ tháng 6.75, tr.12. Phông tài liệu tỉnh Thừa Thiên Huế lưu tại Trung tâm lưu trữ thuộc Văn phòng Tỉnh ủy.
3 Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Hương Thủy (2004), Đảng bộ và nhân dân Hương Thủy trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (1975 - 2000), Nxb. Chính trị quốc gia, tr.20.