SỰ KIỆN
Lan man chuyện nghề
07:34 | 21/06/2025

PHẠM HỮU THU
              Ghi chép

Nhân kỷ niệm 100 năm Báo chí cách mạng Việt Nam, phóng viên Minh Hiếu của Đài Phát thanh và Truyền hình Huế hỏi tôi: “Cơ duyên nào đưa ông đến với nghề báo?”, và tôi đã không ngại ngùng khi trả lời nữ phóng viên ấy rằng nó phát xuất từ thú vui thích đọc báo!

Lan man chuyện nghề
Tác giả và đồng nghiệp chụp ảnh với Luật sư Nguyễn Hữu Thọ tháng 4/1975

Thời còn đi học vì mê đọc báo nên hầu như chiều nào tôi cũng ra quán cafe Lạc Sơn (đối diện Nhà sách Văn Minh trên đường Trần Hưng Đạo) ngồi đợi báo được vận chuyển từ Sài Gòn ra Huế bằng máy bay. Nhật báo tôi thường đọc là tờ Điện Tín. Còn tạp chí là tờ Trình bày. Đầu năm 1971 khi thoát ly lên chiến khu, ngoài chiếc radio mang theo, thỉnh thoảng tôi mới được đọc báo Cờ giải phóng, Cứu lấy quê hương và Tập san Văn nghệ Trị Thiên... Nhờ đọc nên tôi yêu quý các tác giả: Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Kim Cúc, Trần Nguyên Vấn, Nguyễn Đính, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Quang Hà, Nguyễn Khoa Như Ý… Trước khi trở thành nhà văn, nhà thơ họ đều kinh qua nghề báo.

Nhưng người gây ấn tượng nhất đối với tôi là Trọng Thanh. Anh quê ở Nam Bộ, đẹp trai, vui tính nên dễ gần. Anh Trọng Thanh lúc ấy là phóng viên báo ảnh của Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại chiến trường Trị Thiên. Trong series ảnh của anh, tác phẩm làm tôi xúc động nhất là bên hàng rào kẽm gai có hai người lính, một người quỳ xuống nâng đầu, tay còn lại dốc chiếc bi-đông cho người bị thương uống nước. Qua sắc phục tôi nhận ra ngay họ đang ở hai chiến tuyến. Người quỳ là một sĩ quan Quân giải phóng (vì bên hông có mang khẩu súng lục); còn người nằm vắt qua hàng rào là binh sĩ Quân đội Sài Gòn (đang mặc áo quần rằn ri). Hỏi lý lịch bức ảnh, Trọng Thanh cho biết anh ghi lại khoảnh khắc này vào tháng 2/1971 tại cao điểm 550 ở Bản Đông - một trong những địa điểm của cuộc hành quân mà phía Quân đội Sài Gòn gọi là Chiến dịch Lam Sơn 719.

Sau này tôi có xem nhiều bức ảnh chiến trường có nội dung tương tự nhưng chủ yếu do phóng viên phương Tây chụp; còn Việt Nam, có thể đây là bức ảnh thể hiện tính nhân văn đầu tiên của người lính mà anh Trọng Thanh chụp được; nó cho thấy chiến tranh dù khốc liệt đến đâu nhưng tình thương yêu đồng loại trong mỗi con người chưa hoàn toàn bị đánh mất. Điều này là có thật như chuyện gần đây tôi mới biết, đó là vào năm 1973 sau khi nghe trinh sát báo cáo, Huyện đội phó Hương Thủy Lê Hữu Tòng đã cho thẩm tra và nhờ nắm đích xác trong số gần 100 người cùi cõng quân trang và nhu yếu phẩm từ Tân Ba lên Mỏ Tàu, chủ yếu là lao công đào binh của Quân đội Sài Gòn nên ông đã hạ lệnh không cho bắn!

Vì tin vào điều cao đẹp của con người nên khi trở thành nhà báo chuyên nghiệp tôi tác nghiệp theo khuynh hướng đó. Điều này được thể hiện trong cuốn sách “Những trang sử đẹp” của tôi phát hành năm 2024.

*

Trong nửa thế kỷ làm báo, tôi có may mắn tác nghiệp cho Đài Phát thanh và Truyền hình gần 40 năm, chủ yếu là trên lĩnh vực thời sự. Vì gắn với sự kiện và thường xuyên dịch chuyển nên đây là quãng thời gian để lại trong tôi nhiều kỷ niệm nhất.

So với lớp đàn anh trong chiến tranh, lớp chúng tôi tác nghiệp sau khi đất nước đã im tiếng súng hiển nhiên có nhiều thuận lợi. Nhưng hậu quả nặng nề của chiến tranh và thiên tai cũng như chế độ quản lý tập trung, bao cấp, chiến tranh ở hai đầu biên giới, lúc đó đất nước bị bao vây, cấm vận kéo dài đã làm cho nền kinh tế kiệt quệ. Cũng vì thiếu thốn đủ bề nên thời ấy ở Huế chỉ có phát thanh là phát sóng hàng ngày. Còn báo in một tuần chỉ ra vài số và truyền hình chỉ phát sóng cách nhật.

Tác nghiệp ở truyền hình chẵn chòi 30 năm (1982 - 2012) tôi tạm phân làm 2 giai đoạn: trước và sau 1990.

Trước năm 1990, anh em Thời sự của Đài Truyền hình Huế chủ yếu quay bằng phim nhựa. Thời đó phóng viên quay phim được trang bị một máy cầm tay hiệu Bell-Howell của Mỹ, còn phim 16 ly chủ yếu do Cộng hòa Dân chủ Đức cung cấp. Do nguồn phim hạn chế nên khi quay phải tính toán từng cảnh một.

Thời phim nhựa tôi có mấy kỷ niệm đáng nhớ. Trước hết là chuyện lên rừng. Vì muốn làm phóng sự về khai thác gỗ nên tôi đã liên hệ với anh Hoàng Khánh, Giám đốc Lâm trường Nam Đông, trụ sở đóng ở La Sơn. Đúng hẹn chúng tôi có mặt và được anh bố trí đi theo một chiếc xe Reo - tên gọi phổ biến thời bấy giờ được cải tiến từ xe của quân đội Mỹ. Vì là phóng viên nên chúng tôi được ưu tiên cho ngồi ở cabin. Xe đến gần đỉnh đèo La Hy tự nhiên dừng lại. Hóa ra trước khi vào ăn “của rừng” các bác tài đều vào chiếc am ven đường thắp hương, còn khấn vái điều gì tôi không rõ. Xe dừng, phụ xe chuẩn bị kéo cáp. Tranh thủ hỏi tên con dốc sắp vượt, bác tài cho biết tên nó là “Đê bay”. Nghe là lạ nên tôi hỏi và chỉ được nghe giải thích theo suy đoán, đại khái, vùng này có nhiều sơn dương khi thấy người xuất hiện nó phóng ào ào xuống thác. Có phải khi phiên âm từ tiếng Việt sang tiếng Pháp nó biến từ “dê bay” thành “Đê bay”, tương tự như “làng cò” thành “Lăng cô”? 

Để leo con dốc dựng đứng, phụ xe phải tìm gốc cây to có thế vững chắc để móc cáp vào. Nhờ có điểm tựa này xe cứ thế nhích lên từng mét một. (Nói dại, lỡ dây cáp bị đứt hoặc tuột, số phận người ngồi trong xe phụ thuộc vào vực sâu hay nông). Lúc ấy rừng ở khu vực này ít bị tàn phá nên môi sinh hầu như còn nguyên vẹn. Nhiều nhất là chim và sên, vắt. Những cây gỗ quý, to và thẳng thớm, gần đường được máy cưa ưu tiên triệt hạ trước. Khi nó ngã xuống “đè” chết hàng chục cây thấp hơn mọc ở xung quanh! Sau gần hai tiếng cưa, cắt, cuối cùng tời đã kéo từng súc gỗ chất đầy xe. Trên đường đưa gỗ về xuôi, điều làm các chủ xe lo nhất là gặp lúc trời mưa khi đang xuống dốc. Như nông dân, họ cũng phải trông trời, trông mây để hạn chế rủi ro. Lần đầu đi theo xe Reo, anh bạn quay phim đang ngồi trong cabin, bỗng nhiên vỗ vai bác tài “cho tôi xuống”. Và anh xuống thật, chịu khó tản bộ, hết dốc mới dám leo lên xe!

Còn chuyện xuống biển cũng “trời ơi đất hỡi” lắm. Đó là một buổi chiều mùa hè chúng tôi theo đoàn đánh cá của tập đoàn sông Gianh tác nghiệp. Tàu bằng vỏ sắt chuyên đánh bắt ven biển. Khởi hành chừng một tiếng bỗng nhiên anh bạn quay phim của tôi “nôn thốc nôn tháo” và nằm “dí” một chỗ. Thủy thủ bảo, chắc ông này lần đầu đi biển chưa quen nên chỉ bị say sóng mà thôi! Nhờ có học Nhiếp ảnh, biết độ nhạy của phim và khẩu độ của máy nên tôi biến thành quay phim “bất đắc dĩ” của chuyến đi ấy.

Có một chuyện liên quan đến “thời phim nhựa”, nhớ lại vẫn còn thương thương. Hôm đó tôi và Bùi Dũng được phân ra huyện Lệ Ninh tác nghiệp. Việc chính đã xong, định quay về thì một vị Chủ nhiệm Hợp tác xã Nông nghiệp xuất hiện. Ông khoe vụ này được mùa nên ngỏ ý mời chúng tôi đưa tin. Thấy tôi đắn đo, Bùi Dũng động viên: “Yên chí, tao lo”. Thương nhất là hình ảnh ông Chủ nhiệm chạy đôn chạy đáo huy động xã viên ra đồng gặt lúa. Bùi Dũng vừa sắp đặt hình ảnh vừa quay.

*

Sau những năm 1990, Đài Truyền hình Huế chuyển sang sử dụng thiết bị ghi hình bằng băng từ. Riêng quay phim Thời sự được trang bị máy dân dụng rẻ tiền VHS, sử dụng cuộn băng từ có thời lượng 120 phút. So với phim nhựa, việc sử dụng băng từ là một bước tiến lớn về công nghệ. Do không phải chờ đợi rửa phim, lại ghi được cả âm thanh nên rất tiện lợi. Nó đánh dấu thời kỳ truyền hình thực hiện được nhiều mục hơn như: phỏng vấn tại hiện trường, làm phóng sự, phim tài liệu, văn nghệ và các chuyên đề chuyên sâu.

Với đạo diễn chương trình Hồ Hiếu tôi có một kỷ niệm nhớ đời. Do Huế thời đó còn thiếu thiết bị chuyên dụng nên khi quay xong chương trình văn nghệ, nhờ mối thân quen giữa hai Giám đốc, Huế mang băng vào Đà Nẵng nhờ dựng. Khi quay, Hồ Hiếu mời tôi làm trợ lý nên tôi tháp tùng theo anh. Đêm đó, nhờ sự giúp sức nhiệt tình của Phó Phòng Kỹ thuật Lê Tuyến, ba anh em chúng tôi đã dựng được gần 2/3 chương trình. Hồ Hiếu muốn kiểm tra nên khi tua vô tình bản dựng bị rách buộc phải làm lại từ đầu. Thêm một đêm thức trắng. An ủi là chương trình ấy Hồ Hiếu mang đi dự thi Liên hoan Truyền hình toàn quốc và được trao Huy chương Vàng.

Trở lại với công việc chính của tôi. Dù tác nghiệp chủ yếu trên lĩnh vực Thời sự nhưng tôi rất mê làm phóng sự hay phim tài liệu. Khi thực hiện thể loại này, tôi biết mình phải tốn nhiều công sức và thời gian nên tìm cách rút ngắn. Có những phim quay mới nhiều khi phải kéo dài vài ba tháng nhưng cũng có phim vì chỉ quay bổ sung (chủ yếu là dẫn chuyện) nên chỉ thực hiện trong vòng một tuần. Lâu hay mau nó phụ thuộc vào đề tài và nguồn tư liệu. Chính nhờ biết sử dụng tư liệu hợp lý đã giúp tôi tiết kiệm thời gian và kinh phí đầu tư.

Ở đây tôi chỉ xin kể nỗi khổ của người làm phim tài liệu nhưng lại thiếu “tài liệu”. Nhờ gắn bó với cư dân đầm phá, đặc biệt là sau trận bão lớn 1985 nên tôi hầu như đều “thuộc lòng” về những biến chuyển của vùng sông nước Tam Giang - Cầu Hai. Năm 1992, khi trở lại thăm khu tái định cư ở thôn 4 xã Quảng Công - Quảng Điền tôi vô cùng xúc động khi biết sau khi anh Phan Thế Phương, Giám đốc Sở Thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế vì tai nạn đột ngột qua đời, nhân dân ở đây đã lập miếu thờ. Tận mắt chứng kiến tấm lòng của dân đầm phá đối với vị Giám đốc - Tỉnh ủy viên nên đầu năm 1993 tôi đã viết cho Tuổi Trẻ Cuối tuần bài “Miếu thờ người Cộng sản”.

Bám vào chủ đề này mấy năm sau tôi quyết định làm phim tài liệu. Nào ngờ khi dựng, tôi nhờ phóng viên Quốc Phương - quay phim khai thác tư liệu. Sau 3 ngày lục tìm, cuối cùng Quốc Phương rầu rĩ báo lại: “Anh ơi, em đã đỏ mắt tìm đến 12 cuộn băng VHS nhưng không có băng nào có hình ông Phương cả. Chừ mần răng, anh hè”! Kịch bản đã duyệt, chi phí làm phim đã sử dụng. Dừng lại hay tiếp tục, nếu tiếp tục thì bằng cách nào? Để khuây khỏa, tôi phóng xe lên vùng Trà Am. Dừng lại uống nước, tình cờ tôi ngồi đối diện với khu lăng mộ cụ Nguyễn Khoa Chiêm. Tài liệu viết về công lao của cụ tôi đã đọc. Thay bằng đi tiếp tôi quay lại tìm Văn Cầm Hải và reo lên “chuyển đề tài được rồi”. Thay bằng làm chân dung về Phan Thế Phương, tôi chuyển sang làm phim tài liệu “Huyền thoại mới trên phá Tam Giang”, trong đó có nhắc công lao cụ Nguyễn Khoa Chiêm trước đây và việc làm của Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế ngày nay đối với vùng sông nước này mà Giám đốc Phan Thế Phương là người chỉ đạo trực tiếp. Nhờ chuyển đề tài nên nhóm chúng tôi không cần quay thêm mà chỉ cần có một tấm hình ông Phan Thế Phương là đủ. Vấn đề là tìm ở đâu, vì vợ con ông đã chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh. Chợt nhớ đến anh Phan Thế Phi đang còn công tác ở Công ty Điện lực nên tôi nhờ gọi điện cho chị dâu. Đúng ba ngày sau tôi nhận được tấm ảnh mà gia đình đang thờ! Bộ phim tham dự Liên hoan Phát thanh Truyền hình toàn quốc và được trao Huy chương Vàng!

Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua nhưng ký ức về trận lũ lịch sử 1999 vẫn khó phai mờ trong ký ức của tôi. Những đóng góp của Đài Truyền hình Huế xin không nhắc lại nhưng do số anh em “tác chiến” cùng tôi vào thời điểm ấy có người đã ra đi như quay phim Bá Thanh, số còn lại phần lớn đã nghỉ hưu nên tôi viết những dòng này để tri ân họ. Trong 3 ngày diễn ra, trong sổ tay của tôi, số phóng viên của Phòng Thời sự trực tiếp tham gia tác nghiệp lũ vỏn vẹn chỉ có 7 người, đó là: Trần Ngọc Toan, Võ Hồng Thảo, Dương Chiến, Trần Bá Đại Dương, Trương Phú Thạnh, Trần Quốc Phương và Bá Thanh. Họ tác nghiệp từ khi lũ xuất hiện lúc 7 giờ sáng 2/11 cho đến khi lũ rút vào chiều 4/11/1999.

Ngoài chuyện đói rét, mất ngủ, hết pin, máy ẩm; có hai chuyện liên quan đến an nguy của phóng viên nên tôi ghi lại. Chuyện đầu tiên là sáng 2/11, khi được phân về “rốn lũ” Phú Hiệp, cặp Đại Dương - Dương Chiến liền thuê thuyền để vượt sông Đông Ba. Thuyền xuất phát từ chân cầu Gia Hội, khi ra giữa dòng bất ngờ lũ dữ tràn về. Chiếc thuyền bị đẩy xuống tận cầu Thanh Long. Tại đây lại thuê ghe về Phú Hiệp, đến nơi nước lũ đã chấm mái nhà! Quay phim Dương Chiến buồn bã kể: “Em đưa máy ghi. Khi bấm, khốn nạn nó bị DEW!”. DEW tức là máy ghi hình bị ẩm không khởi động được. Nó chẳng khác nào tình cảnh người lính xung trận khi bắn súng bị hóc!

Còn cặp Hồng Thảo - Quốc Phương trên đường về khi đang lội, bất ngờ bức tường phía đông của Bệnh viện Trung ương Huế bị sập. Người, máy đều bị ướt! Quan sát tình hình, gần 10 giờ sáng 2/11, tôi trao đổi với những phóng viên có mặt về dự đoán của mình, khả năng trưa nay lũ sẽ vượt qua mặt cầu Trường Tiền. Nếu mình tranh thủ tiếp cận sân thượng khách sạn Morin thế nào cũng ghi được hình ảnh lịch sử. Do nước đang dâng cao, tôi không phân công mà chỉ đề nghị anh em ai xung phong thì đăng ký! Lần đầu tiên trong đời tôi nhận được sự đồng tình tuyệt đối của: Trần Ngọc Toan, Dương Chiến, Trương Phú Thạnh, Nguyễn Bá Thanh. Để hỗ trợ cho nhau, tôi ứng tiền thuê thuyền và cử anh Trần Ngọc Toan phụ trách nhóm. Nhóm xuất phát lúc 10 giờ, khi đi tôi thấy có phóng viên Võ Triết (Đài Phát thanh và Truyền hình Thừa Thiên Huế (TRT) xin gia nhập).

Từ khu B cuối đường Trần Cao Vân tôi dự đoán chậm lắm là một giờ sau cả nhóm sẽ tiếp cận được địa điểm và khi biết đúng 12 giờ trưa 2/11 lũ vượt qua cầu Trường Tiền, tôi đinh ninh thế nào tối hôm đó Trung tâm Truyền hình Việt Nam sẽ phát đi hình ảnh lịch sử này.

Không điện thoại, chỉ biết ngóng chờ. Mãi đến gần 17 giờ hôm đó cả nhóm lủi thủi quay về. Trưởng nhóm Trần Ngọc Toan thuật lại, không thuê được thuyền, mấy anh em lội bộ. Đến ngã tư Trần Cao Vân - Phạm Hồng Thái nước từ sông Hương cuồn cuộn ập vào. May mà khi đi, anh Trần Ngọc Toan có mang theo cây sào. Nước chảy siết, anh em bấu víu vào nó lội qua và cuối cùng đã đu bám vào bức tường của ngân hàng Agribank. Tôi lặng người khi biết cả nhóm hôm đó không có ai biết bơi!

*

Sau 30 năm gắn bó, sáng ngày 1/11/2012 cơ quan tổ chức chia tay tôi. Giám đốc Trung tâm Truyền hình Việt Nam tại Huế Văn Công Toàn hứng chí đọc tặng tôi, xin trích nguyên văn:

Tên anh Phạm Hữu (có) Thu
Cuộc đời vẫn được đền bù thong dong
Về hưu cũng được yên lòng
Yêu nghề làm báo vẫn không bỏ nghề
Đường dài còn mãi đam mê
Chúc anh sức khỏe tràn trề niềm vui.

Nghỉ làm báo hình, tôi nhận làm cho một tờ báo in. Nhờ không bị áp lực chuyện tin, bài, thậm chí không phải chạy tìm quảng cáo nên tôi có thời gian “thong dong” tìm hiểu và viết những điều mình còn ưu tư, đặc biệt là những mất mát, hy sinh của những người con tận hiến trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Phần lớn bài viết của tôi đều được báo Thừa Thiên Huế trước đây, nay là báo Huế Ngày Nay và Tạp chí Sông Hương sử dụng. Mãi đến năm 2024, tôi chọn lọc và in trong cuốn “Những trang sử đẹp”!

Để có “Những trang sử đẹp”, tôi đã dành thời gian tìm gặp nhân chứng - những con người may mắn còn sống sót sau cuộc “đụng đầu lịch sử” vô cùng gian khổ và ác liệt. Đớn đau nhất là khi vào viếng các khu nghĩa trang, số liệt sĩ được định danh rất ít mà thay vào đó là những dãy mộ chí ghi “chưa xác định danh tính”.

P.H.T
(TCSH57SDB/06-2025)

 

 

Các bài đã đăng