70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ
Thơ kháng chiến chống Pháp của Tố Hữu - một đỉnh cao của văn học cách mạng Việt Nam hiện đại
09:13 | 06/05/2024

PHAN TUẤN ANH

Năm tháng trôi qua thật nhanh, thời gian có thể xóa nhòa nhiều ký ức, kỷ niệm. Song với văn học nói chung và thơ ca nói riêng, những giá trị từng đại diện cho tiếng nói và lương tri của dân tộc, in đậm dấu ấn lịch sử của thời đại mà tác giả đã sống và viết, sẽ trở thành cột mốc không thể xóa mờ hay phủ nhận. 

Thơ kháng chiến chống Pháp của Tố Hữu - một đỉnh cao của văn học cách mạng Việt Nam hiện đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với một đơn vị bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. (Ảnh tư liệu TTXVN)

Thơ Tố Hữu là một thành tựu như vậy. Có thể thấy, sự nghiệp thơ ca Tố Hữu trải dài và xuyên suốt quá trình hình thành, vận động, đấu tranh và chiến thắng của cách mạng Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở mỗi giai đoạn nhất định của tiến trình cách mạng, Tố Hữu đều là lá cờ đầu với những thành tựu thơ ca nổi bật. Ở giai đoạn tiền kháng chiến (chống Pháp), Tố Hữu (tên thật Nguyễn Kim Thành) có Từ ấy (1938); trong kháng chiến chống Pháp nổi bật với những tác phẩm như Bầm ơi (1948), Lượm (1949), Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (5/1954), Việt Bắc (10/1954)…; giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ông cống hiến qua các thi phẩm như Người con gái Việt Nam (1958), Bài ca mùa xuân 1961 (1961), Bác ơi (1969)…; giai đoạn văn học hòa bình, đổi mới, Tố Hữu cũng có những thi phẩm đáng chú ý như Xuân đấy (1984), Một tiếng đờn (1991), Xuân đang ở đâu (1992)… Theo một cách nào đó, những thành tựu thơ ca Tố Hữu luôn bám sát diễn biến cách mạng Việt Nam, ở những khúc vinh quang chói lọi, lẫn những lúc bi hùng, hay cả khi chìm trong nốt trầm xao xuyến. Tố Hữu xứng đáng là “người thư ký trung thành của thời đại”, một người cầm bút dùng văn chương để làm cách mạng. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, chân lý cách mạng trong thơ Tố Hữu đã được thẩm mỹ hóa, lý tưởng hóa trở thành chân lý nghệ thuật của cả một trào lưu (hiện thực xã hội chủ nghĩa), lẫn một thời đại thi ca.

Văn học tồn tại tính đa chức năng, tính đa hệ thống, thì thơ Tố Hữu xứng đáng được tôn vinh bởi chức năng giai cấp, chức năng nhận thức và chức năng đấu tranh xã hội. Có những nhà thơ và bài thơ thuần túy ngợi ca tình yêu, cái đẹp, hay triết lý nhân sinh, song cũng rất cần những nhà thơ dụng hành xã hội. Trong phạm vi lý tưởng thẩm mỹ của mình, Tố Hữu xứng đáng là nhà thơ có thành tựu thơ ca lớn nhất của văn học Việt Nam trong giai đoạn 1945 - 1975. Đối với thơ ca kháng chiến chống Pháp nói riêng, chúng tôi nhận thấy những cách tân quan trọng của nhà thơ xứ Huế trong tiến trình vận động của thơ Việt Nam hiện đại. Ở một thời điểm lịch sử đáng nhớ, tròn 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024), việc nhìn nhận lại và đánh giá lại thơ kháng chiến chống Pháp của Tố Hữu vừa có ý nghĩa lịch sử, lại vừa có ý nghĩa văn học. Bởi nếu như những hiểu biết về Thơ mới (1930 - 1945) của chúng ta khá đa dạng, đồ sộ, thơ ca kháng chiến chống Mỹ cũng được đánh giá cao, kỹ lưỡng với nhiều công trình. Những khảo sát về giai đoạn văn học này thiên về chính trị, lịch sử, hơn là đánh giá đúng/đủ mức về giá trị văn học.

Trong nhiều thành tựu thơ ca chống Pháp mà Tố Hữu đã để lại cho văn đàn, do khuôn khổ của bài viết, chúng tôi muốn nhìn sâu vào ba thi phẩm quan trọng nhất trong cái nhìn chủ quan của mình, đó là Lượm (1949), Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (5/1954) và Việt Bắc (10/1954). Ba bài thơ này vừa cho thấy sự vận động của tư duy nghệ thuật thơ Tố Hữu, vừa cho thấy sự vận động và chiến thắng của cách mạng Việt Nam trong cuộc đấu tranh với thực dân Pháp. Lượm là một bài thơ hồn nhiên, trong sáng, đơn giản trong cấu tứ, câu từ lẫn hình tượng, song thật khó lý giải về sức hút, sự ám ảnh lẫn khả năng đi vào lòng quần chúng của thi phẩm này. Bài thơ được viết theo thể 4 chữ, gieo vần tự do khá ngẫu hứng, tiết tấu nhanh và dồn dập, âm điệu vui tươi, có thể thấy đây không phải là thể thơ và cách triển khai bài thơ quen thuộc của Tố Hữu.

Ngày Huế đổ máu
Chú Hà Nội về
Tình cờ chú cháu
Gặp nhau Hàng Bè

Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch
Mồm huýt sáo vang
Như con chim chích
Nhảy trên đường vàng

Có thể nhận định rằng, đây là một trong những bài thơ hay nhất và được học sinh yêu thích nhất, thuộc nhiều nhất trong chương trình ngữ văn ở phổ thông. Hàng loạt những từ láy được sử dụng, cách gieo vần tự do, ngẫu hứng, sự tối giản của thể thơ bốn chữ và đặc biệt: hình tượng trong sáng, vui tươi đầy sức sống của người chiến sĩ giao liên trẻ tuổi: Lượm. Âm hưởng thi phẩm Lượm gắn với nghệ thuật đầy trong sáng vui tươi của Tố Hữu trong Từ ấy, hơn là sự suy tư triết lý, sử thi trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này. Cả bài thơ dễ đọc, dễ học, dễ thuộc bởi được triển khai theo một chiến lược của văn học dân gian: sự ngẫu hứng và tùy biến của đồng dao. Bài thơ hay và sôi động, bởi Lượm là một nhân vật sống, có đối đáp, đối thoại, có tâm hồn sinh động, chứ không phải một nhân vật trữ tình gián tiếp thường thấy trong thơ ca nói chung:

Cháu đi liên lạc
Vui lắm chú à
Ở đồn Mang Cá
Thích hơn ở nhà!”

Cháu cười híp mí
Má đỏ bồ quân
- “Thôi, chào đồng chí!”
Cháu đi xa dần

Bài thơ được bao thế hệ bạn đọc nhỏ tuổi trên ghế nhà trường yêu mến bởi tính hồn nhiên, dũng cảm, yêu đời của nhân vật Lượm - người chiến/liệt sĩ thiếu niên. Sự hy sinh bất ngờ, đầy xót xa của Lượm vào cuối bài thơ tạo ra cảm giác xót thương, đớn đau song có tính chất thanh tẩy (Catharsis) như quan điểm của Aristotle về bi kịch.

Bỗng lòe chớp đỏ
Thôi rồi, Lượm ơi!
Chú đồng chí nhỏ
Một dòng máu tươi

Cháu nằm trên lúa
Tay nắm chặt bông
Lúa thơm mùi sữa
Hồn bay giữa đồng (…)

Chú bé loắt choắt
Cái xắc xinh xinh
Cái chân thoăn thoắt
Cái đầu nghênh nghênh

Cái hay của bài thơ, và cũng là đặc trưng riêng của thơ Tố Hữu trong giai đoạn đầu chống Pháp, đó là tính say mê, lạc quan và tươi mới - những giá trị chỉ có được ở những con tim thi sĩ trẻ tuổi. Mặc dù Lượm hy sinh, song nhịp thơ, câu từ, hình tượng, cảm xúc không vì thế mà bị chùng xuống. Chủ thể trữ tình không than khóc, nỗi đau ẩn vào bên trong, và đột nhiên, những khổ thơ cuối lại lặp lại những gì sinh động, tươi mới và đẹp đẽ nhất của nhân vật Lượm, như một điệp khúc đầy đam mê trong ca khúc. Hai khổ thơ cuối chính là những hình ảnh đẹp nhất, sống động nhất của Lượm đã được trình bày trong những khổ đầu tiên. Cảm xúc bi hùng, sử thi không xuất hiện trong trường hợp này. Lượm là những mất mát đầu tiên của cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đó là những sự hy sinh tất yếu bởi chiến tranh không phải trò đùa. Nhưng Lượm không chết hẳn, hay bị lãng quên, em mãi mãi sống trong tuổi thanh xuân bất diệt của mình.

Cái chết của em hóa thành bất tử, qua bài thơ của Tố Hữu. Nhịp điệu, tiết tấu bài thơ gần như không thay đổi xuyên suốt hơn 14 khổ thơ, kể cả khi sự kiện Lượm hy sinh đột ngột vào nửa sau của thi phẩm. Bài thơ không đi sâu vào nội tâm nhân vật Lượm, cũng không phản ánh nhiều cảm xúc và thế giới nội tâm của chủ thể trữ tình (nhân vật “chú”). Điều này có thể xem là đặc trưng của thơ Tố Hữu trong giai đoạn đầu của cuộc cách mạng kháng chiến chống Pháp. Các sự kiện khách quan diễn ra liên tiếp, thơ ca là bản tường trình trực tiếp và kịp thời, không mất thời gian và ít có điều kiện đi sâu phân tích, triết lý hay nghiền ngẫm hiện thực. Đó cũng có thể xem là những giới hạn của thơ Tố Hữu trong giai đoạn đầu. Nhà thơ chín chắn lên theo thời gian, cảm xúc dần được lắng đọng, ngưng tụ và kết tinh theo trải nghiệm sống thành một thứ triết lý riêng. Hiểu theo nghĩa đó, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên (1954) là một minh chứng sống động cho sự trưởng thành của thơ Tố Hữu giai đoạn kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ diễn ra ngay từ đầu với những sự kiện gấp gáp, chấn động năm châu bốn biển bởi chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp!
Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp!
Vinh quang Tổ quốc chúng ta
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi
Quyết chiến quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại

Mở đầu bài thơ là một tiếng reo vui, bùng nổ về mặt cảm xúc trước chiến thắng lớn của một dân tộc mới giành độc lập chưa đầy một năm lại phải tiếp tục chiến đấu chín năm và chiến thắng một đế quốc thực dân công nghiệp hiện đại của châu Âu. Tính sử thi là điểm mới của Hoan hô chiến sĩ Điện Biên so với Lượm trong giai đoạn đầu. Hệ thống hình tượng thơ cũng thay đổi, với nhiều tầng nghĩa triết lý và ẩn dụ hơn hẳn thơ Tố Hữu trong giai đoạn tiền chiến và buổi đầu kháng Pháp. Đoạn thơ sau xứng đáng là một trong những đoạn thơ hay nhất trong sự nghiệp thi ca Tố Hữu nói riêng, và thơ ca cách mạng nói chung:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Những đồng chí, thân chôn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ bão,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân, nhắm mắt, còn ôm.
Những bàn tay xẻ núi, lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện…

Thể thơ tự do hơn rất nhiều, dài ngắn bất thường và gần như bỏ qua vần điệu. Đó là một bước tiến dài trong tư duy nghệ thuật thơ ca của Tố Hữu, nếu ta so với giai đoạn đầu với thi phẩm Lượm. Tính đồng dao bị bỏ qua để nhường chỗ cho tính sử thi. Hàng loạt sự kiện lịch sử có thật đã được Tố Hữu đưa vào trong đoạn thơ này, nhằm nâng cao tính hiện thực, tính khái quát, tiêu biểu như liệt sĩ Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai; liệt sĩ Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo; liệt sĩ Bế Văn Đàn lấy thân làm giá súng… Tất cả những tấm gương anh hùng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đều được Tố Hữu đưa vào thơ, song không nhắc tên cụ thể bất kì ai, như một thủ pháp nhằm ngợi ca nhân dân và quân đội anh hùng nói chung, hơn là sùng bái một cá nhân cụ thể. Thơ Tố Hữu giai đoạn cuối thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã đạt đến mức khái quát cao, có khả năng tái hiện một hiện thực rộng lớn với chất sử thi, anh hùng ca đậm đặc: “Đầu nung lửa sắt/ Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt/ Máu trộn bùn non/ Gan không núng/ Chí không mòn!”. Có thể nhận ra sự phát triển của nghệ thuật thơ Tố Hữu trong một thời gian ngắn. Từ chỗ chỉ miêu tả một cá nhân anh hùng (Lượm) ra chỗ miêu tả nhân dân anh hùng; từ chỗ chỉ gắn với một sự kiện cụ thể (sự hy sinh bất ngờ của Lượm) ra chỗ miêu tả một quá trình đấu tranh gian khổ, kéo dài (năm mươi sáu ngày đêm của cả Quân đội Nhân dân Việt Nam); từ chỗ kỷ niệm cá nhân (quan hệ chú cháu với Lượm) chỗ khách quan hóa hiện thực.

Bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên cũng có dung lượng câu từ lớn hơn hẳn Lượm, trong đó có rất nhiều đoạn thơ hay, có tính khái quát cao:

Và những chị, những anh, ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh
Hỡi các chị, các anh
Trên chiến trường ngã xuống!
Máu của anh chị, của chúng ta, không uổng:
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng

Hàng loạt những địa danh tại Điện Biên Phủ đã được đưa vào đoạn thơ, nhằm nâng cao tính hiện thực sử thi cho tác phẩm. Có thể nói, trong làng thơ ca Việt Nam thế kỷ XX, Tố Hữu là người có biệt tài trong việc sử dụng những địa danh lịch sử. Điều này cho thấy khả năng bám sát hiện thực, quá trình trực tiếp thực tế giữa nhà thơ và cách mạng. Thơ Tố Hữu như một bản tường trình hiện thực cập thời, đã nhanh chóng được bạn đọc đương thời yêu quý và đam mê. Tính thời sự, tính định danh của thơ Tố Hữu, cụ thể trong trường hợp Hoan hô chiến sĩ Điện Biên đã biến bài thơ trở thành một bản tin thời sự; lại vừa có ý nghĩa một bản khái quát hóa toàn bộ chiến thắng lịch sử; cùng sự tái hiện quá trình chiến đấu gian khổ đầy hy sinh chống thực dân Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ, không đơn thuần là một chiến thắng quân sự cụ thể tại tỉnh Điện Biên, mà là thắng lợi của lực lượng cách mạng vô sản Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trước thực dân Pháp. Đó là thành tựu không chỉ năm mươi sáu ngày đêm máu lửa, mà là tiến trình kéo dài từ năm 1946 đến năm 1954. Lần đầu tiên, một dân tộc thuộc địa nửa phong kiến (mới chỉ giành được độc lập, tự do chưa đầy một năm sau Cách mạng Tháng Tám 1945) đã chiến thắng đội quân hiện đại, tiên tiến hàng đầu thế giới, của một nước văn minh công nghiệp (Pháp). Chiến thắng Điện Biên Phủ là một trong những trận đánh quân sự quan trọng nhất trong lịch sử hiện đại, định hình một diện mạo và trật tự thế giới mới. Nó đồng thời mang những ý nghĩa cao cả, bởi đó là chiến thắng vang dội của lực lượng dân chủ, dân tộc nhân dân dưới sự lãnh đạo của một chính đảng vô sản trước chủ nghĩa đế quốc tư bản. Một lực lượng giai cấp mới đang lên, xây dựng một thế giới mới, trật tự mới, lý tưởng mới: lực lượng cách mạng vô sản. Chính đoạn cuối của bài thơ thể hiện rõ tuyên ngôn này:

Đồng chí Phạm Văn Đồng
Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ
Tin đây Anh, Điện Biên Phủ hoàn thành
Ngày mai, vào cuộc đấu tranh
Nhìn xuống, bọn Bi đôn, Smit
Anh sẽ nói: “Thực dân, phát xít
Đã tàn rồi
Tổ quốc chúng tôi
Muốn độc lập, hòa bình trở lại
Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái
Nước chúng tôi và nước các anh
Nếu còn say máu chiến tranh
Ở Việt Nam, các anh nên nhớ
Tre đã thành chông, sông là sông lửa
Và chiến thắng Điện Biên
Cũng mới là bài học đầu tiên!”

Bài thơ là một tuyên ngôn về chiến thắng oanh liệt của cách mạng vô sản Việt Nam trước thực dân Pháp và của phương Đông trước các lực lượng thực dân và phát xít. Đoạn cuối bài thơ là một cuộc đối thoại, một thông điệp chính thức gửi đến kẻ thù, vừa thể hiện ước vọng hòa bình, độc lập, song cũng rất cương mãnh khẳng định thế và lực mới của quân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tính đa chức năng, đa văn bản trong thi phẩm Hoan hô chiến sĩ Điện Biên cho thấy một hành trình dài trong nghệ thuật thơ ca của Tố Hữu nói riêng và thơ cách mạng chống Pháp nói chung.

Đỉnh cao của thơ Tố Hữu giai đoạn kháng chiến chống Pháp ngoài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên còn có Việt Bắc. Nhìn nhận một cách chính xác, Việt Bắc được viết vào tháng 10 năm 1954, lúc này về cơ bản cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi đến thắng lợi và chuyển qua một giai đoạn mới. Chúng ta đều biết rằng, chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử được kéo dài từ 13 tháng 3 năm 1954 cho đến mồng 7 tháng 5 năm 1954 thì đi đến thắng lợi. Chiến thắng này ngay lập tức ảnh hưởng đến kết quả của Hội nghị Genève (Thụy Sỹ) giữa các bên bàn về tương lai của Việt Nam. Chính vì vai trò quan trọng của chiến thắng Điện Biên Phủ đối với tương lai Đông Dương, thông qua bàn đàm phán giữa các bên tại Hội nghị Genève, nên cuối bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, tác giả có nhắc đến chuyện đêm nay có lẽ đồng chí Phạm Văn Đồng không ngủ được ở bên đó (Thụy Sỹ).

“Ngày mai, vào cuộc đấu tranh” tức là ngày mai, tại Hội nghị Genève, phái đoàn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu sẽ có nhiều ưu thế trong đàm phán. Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20 tháng 7 năm 1954, như vậy, về cơ bản, cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi đến thắng lợi vào thời điểm ấy. Trong Hiệp định Genève ghi rõ: tôn trọng độc lập chủ quyền của ba nước Đông Dương, cấm đưa quân đội, vũ khí và nhân viên quân sự nước ngoài vào Đông Dương, không được thiết lập căn cứ quân sự nước ngoài ở Đông Dương. Việt Bắc là thi phẩm được viết vào thời điểm năm 1954, song lại đến tháng 10, khi hiệp định Genève đã ký kết xong được khoảng ba tháng. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn quyết định xếp Việt Bắc vào chung trong mạch văn chương kháng chiến chống Pháp, bởi nội dung, thế giới hình tượng, các sự kiện trong tác phẩm đều gắn với quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp.

Tháng 10 năm 1954, sau những kết quả có được từ hiệp định Genève, Trung ương Đảng, Chính phủ quyết định di dời bộ máy lãnh đạo khỏi chiến khu Việt Bắc (một địa danh bao gồm địa phận nhiều tỉnh ngày nay, trải dài qua 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên) để quay trở về lại Thủ đô Hà Nội. Việt Bắc từng là thủ đô kháng chiến của cách mạng, trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhân cảm xúc bồi hồi, chia tay bịn rịn đầy nghĩa tình, kỷ niệm, giữa những người cách mạng vô sản như Tố Hữu đối với quân dân chiến khu, nhà thơ xứ Huế đã cảm tác nên thi phẩm Việt Bắc như một lời tri ân. Bài thơ được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là một trong những đỉnh cao của sự nghiệp sáng tạo của Tố Hữu. Bài thơ cũng được đánh giá là điển hình nhất cho phong cách trữ tình sáng tạo của nhà thơ.

Về cơ bản, Việt Bắc tập trung tất cả những gì tinh hoa và điển hình nhất của thơ ca Tố Hữu. Mở đầu bài thơ và những lời tâm tình, đối thoại thủ thỉ khá lạ, đọc xong mới hiểu đó là lời của nhân dân Việt Bắc đối với những người chiến sĩ, cán bộ sắp chia tay để về lại Thủ đô Hà Nội:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn

Kiểu trình bày thơ qua sự tâm tình, đối đáp, cặp xưng hô mình - ta… đều là những gì đặc trưng nhất cho phong cách thơ Tố Hữu, tạo ra sự gần gũi, chân tình giữa nhân vật trữ tình với bạn đọc. Những câu thơ tiếp theo mới cung cấp cho chúng ta thông tin về người nói trong cuộc hồi đáp thi ca này: “Tiếng ai tha thiết bên cồn/ Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi/ Áo chàm đưa buổi phân ly/ Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”. Việt Bắc khác hẳn Lượm Hoan hô chiến sĩ Điện Biên trên phương diện thời gian nghệ thuật. Nếu Lượm hoàn toàn được viết ở thời gian hiện tại, tường thuật lại chính xác những gì đang diễn ra ở hiện tại mà thôi, thì Hoan hô chiến sĩ Điện Biên cũng chủ yếu được viết ở thì hiện tại. Nói đúng hơn, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên có nhìn về quá khứ, với những kỷ niệm, song về cơ bản bài thơ chỉ gói gọi trong một quá khứ gần, chủ yếu gắn với năm mươi sáu ngày đêm chiến dịch khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Tính hiện tại và thời sự của Hoan hô chiến sĩ Điện Biên thể hiện quá rõ ràng trong đoạn cuối, khi Tố Hữu trực tiếp gửi tin đến đoàn đàm phán của cách mạng Việt Nam tại Hiệp định Genève do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Song với Việt Bắc, gần như toàn bộ thời gian nghệ thuật lại hướng về quá khứ, trong một quãng kéo dài đến 15 năm. Trong cái nhìn hoài niệm về quá khứ, mọi hình tượng, ký ức đều được trữ tình hóa và lãng mạn hóa:

- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu được thể hiện thành công nhất trong đoạn thơ này, và đó cũng là một trong những đoạn thơ hay nhất của thơ kháng chiến nói chung. Mối quan hệ quần chúng được thu gọn lại trong quan hệ đôi lứa, cá nhân. Hai chủ thể quân - dân vốn là quan hệ chính trị, xã hội, được ẩn dụ hóa, trữ tình hóa thành mối quan hệ nam - nữ, mang bản chất của quan hệ tình yêu. Cặp đại từ nhân xưng: mình - ta vốn rất phổ biến trong kho tàng ca dao, dân ca Việt Nam, thường biểu lộ quan hệ tình yêu đôi lứa, nay được Tố Hữu sử dụng để biểu thị mối quan hệ khăng khít, ân tình giữa lực lượng cách mạng với quần chúng nhân dân vùng kháng chiến Việt Bắc. Nét đặc sắc của Tố Hữu là khả năng lựa chọn những hình tượng, chi tiết đậm bản sắc văn hóa địa phương vùng cao: trám bùi, măng mai, lau xám, suối lũ, mây mù… cho đến những địa danh riêng như: Tân Trào, Hồng Thái… Tất cả sự tinh tế trong lựa chọn hình tượng, chi tiết, địa danh này cho thấy nhà thơ thực sự phải là người trực tiếp với thực tiễn cách mạng, là người sống cùng hiện thực lớn lao ấy. Không một sự tưởng tượng hay hư cấu nào có thể giúp nhà thơ khắc phục được khoảng cách hiện thực, để có thể viết nên những vần thơ giàu tình cảm rung động, song cũng đầy lịch sử hào hùng như thế. Về cơ bản, với tôi, Việt Bắc mới chính là đỉnh cao nhất của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung và thơ Tố Hữu giai đoạn 1945 - 1954 nói riêng. Hãy đọc kỹ đoạn thơ sau:

- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu...

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi...
Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa...

Đây là những dòng thơ xuất sắc bậc nhất thơ ca Việt Nam thế kỷ XX nói chung, ngay cả khi đặt cạnh những tác phẩm xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới giai đoạn 1930 - 1945. Tính trữ tình trong đoạn thơ gần như lấn át, phủ lấp tính luận đề, tính thời sự của sự kiện mà thi thoảng ta vẫn thấy trong Hoan hô chiến sĩ Điện Biên. Một không gian văn hóa vùng cao đã được Tố Hữu vẽ nên thật đẹp, với biết bao hình tượng con người, đồng bào dân tộc thiểu số trong đời sống thường nhật, những địa danh sông núi gắn bó với lịch sử cách mạng. Việt Bắc là nơi thăng hoa nhất cảm hứng sáng tạo của Tố Hữu.

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà...
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung

Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Việt Bắc nằm ở vị trí trung tâm thơ ca chống Pháp, bởi đây chính là thi phẩm xây dựng hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh thành công nhất. Có thể nói, nhân dân, chiến sĩ và người mẹ quê hương là nhân vật trong thơ ca Tố Hữu, nhưng trung tâm chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu - lãnh tụ thiên tài của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thơ Tố Hữu là kết tinh của trí tuệ dân tộc, sức mạnh tự cường, lòng yêu nước của nhân dân, mang vẻ đẹp của người chiến sĩ cộng sản và đại diện tiêu biểu nhất của giai cấp cần lao. Gần như bất cứ bài thơ thành công nào của nhà thơ Tố Hữu, gắn với một điểm mốc lịch sử của cách mạng Việt Nam, đều có hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện, như một biểu tượng chiến thắng, một người dẫn đường đầy trí tuệ và nhân ái. Việt Bắc sở hữu những câu thơ hay nhất khi viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thơ ca Việt Nam đương đại:

- Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người…

Về cuối tác phẩm, tính sử thi đậm chất hiện thực xã hội chủ nghĩa lại bừng nở. Có thể nói, Việt Bắc là một bản hòa âm của nhiều tông giọng thơ ca, tạo nên một âm hưởng trầm hùng bi tráng, song cũng đầy xao xuyến lắng đọng. Những câu thơ trên thực sự đã tạo nên những huyền thoại trong thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh. Những huyền thoại này không phải là thánh thần, những cá nhân kiệt xuất, mà được xây dựng nên từ Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng. Tóm lại, Việt Bắc là một bản tổng kết 15 năm xây dựng lực lượng, chiến đấu anh dũng, hy sinh mất mát kiêu hùng để đi đến chiến thắng vẻ vang trước thực dân Pháp. Chiến thắng vĩ đại này của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, sẽ là tiền đề quan trọng cho những chặng đường cách mạng vĩ đại ở phía trước. Và bất kì ở chặng đường lịch sử nào, Tố Hữu - nhà thơ xứ Huế vẫn là lá cờ đầu của thi ca cách mạng Việt Nam.

P.T.A
(TCSH423/05-2024)

 

 

Các bài đã đăng