Văn nghệ trong nước
Thăng Long - Hà Nội qua mộc bản triều Nguyễn
15:24 | 05/08/2010
Ngày 1.8.2010, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO thông qua nghị quyết công nhận Khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long là Di sản văn hóa thế giới.
Thăng Long - Hà Nội qua mộc bản triều Nguyễn
Cách đây đúng 1.000 năm (tháng 7.1010) ngay sau khi lên ngôi, vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ thành Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La và đổi tên là Thăng Long. Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa tiêu biểu nhất của Việt Nam.

Lần đầu tìm thấy mộc bản khắc Chiếu dời đô

Trong quá trình tìm kiếm tài liệu triều Nguyễn liên quan đến Thăng Long - Hà Nội, cán bộ và nhân viên Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (tại Đà Lạt) lần đầu tiên tìm thấy tấm mộc bản khắc nguyên văn Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ.

Thạc sĩ Phạm Thị Huệ, Giám đốc Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (TTLTQG IV) kể: Từ năm 1984, bà được Cục Lưu trữ Nhà nước đặc phái từ TP.HCM lên Đà Lạt (Lâm Đồng) để “canh giữ” kho tàng mộc bản triều Nguyễn đang được cất giữ tại tòa nhà dòng Chúa Cứu thế. Từ đó đến nay, mộc bản là một phần quan trọng trong cuộc sống của bà. Thạc sĩ Phạm Thị Huệ là người có nhiều công trình nghiên cứu về mộc bản triều Nguyễn và đóng góp nhiều công sức để mộc bản triều Nguyễn được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới và đưa vào chương trình “Ký ức thế giới” vào ngày 30.7.2009.

Mộc bản khắc Chiếu dời đô


Gần 30 năm lấy mộc bản làm bạn tri kỷ, đã từng tìm tòi, nghiên cứu, dịch thuật, sắp đặt các đề mục cho kho tàng mộc bản khổng lồ với 34.618 tấm hiện đang lưu giữ tại TTLTQG IV, nhưng mãi gần đây, bà Huệ và các cộng sự mới tìm thấy mộc bản khắc Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ. Thạc sĩ Phạm Thị Huệ thổ lộ: “Lần đầu tìm thấy Chiếu dời đô, suốt 2 tuần liền tôi như không ngủ được, trong lòng cảm thấy phấn chấn nao nao. Tôi nghĩ, vua Lý Thái Tổ đã phù hộ chúng tôi khi chúng tôi đang thực hiện một số công trình nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội”.

Theo thạc sĩ Phạm Thị Huệ, từ trước đến nay có rất nhiều công trình đề cập đến Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, nhưng đó chỉ là những bản sao, bản chụp. Bản Chiếu dời đô mới tìm thấy nằm trong bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư (kỷ Lý Thái Tổ - quyển 2 - mặt khắc 2), thuộc khối tài liệu mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới, đang được bảo quản tại TTLTQG IV, với ký hiệu H 31/8. Đây là bản khắc chữ Hán ngược, kích thước 41x21,2 cm, khuôn khổ in 29,5x20 cm. Toàn bộ Chiếu dời đô có 214 chữ, không kể phần chú thích. Thạc sĩ Huệ nhận xét, bài chiếu được bố cục rất chặt chẽ, lời văn khúc chiết, đầy sức thuyết phục.

Mở đầu, nhà vua đưa ra một vài ví dụ xưa, ca ngợi và chứng minh việc dời đô của các nhà vua Trung Quốc, đã đem lại sự phồn thịnh cho đất nước: “Xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh 5 lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương 3 lần dời đô; đâu phải các vua thời Tam đại đều theo ý riêng của mình mà tự tiện dời đô xằng bậy”. Lý Công Uẩn nói rõ mục đích và lợi ích của việc dời đô: “Mưu nghiệp lớn, chọn ở nơi chính giữa, dựng kế cho con cháu muôn đời; trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện lợi thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh”. Sau khi nghiên cứu từ cổ tới kim, xem xét thực tế vị trí thành Đại La, nhà vua thấy: “Thành Đại La... ở giữa khu vực đất trời, được thế rồng chầu - hổ phục, chính giữa nam - bắc - đông - tây, tiện nghi núi sau - sông trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa; dân cư không phải chịu khổ vì thấp trũng, tối tăm; muôn vật hết sức tốt tươi phồn thịnh”. Lý Công Uẩn khẳng định vị trí quan trọng của thành Đại La đối với việc xây dựng và phát triển đất nước: “Xem khắp nước Việt, đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Cuối cùng nhà vua quyết định: “Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở”. Dựa trên bản khắc vừa tìm thấy, thạc sĩ Phạm Thị Huệ cho rằng phải dịch: “... được thế rồng chầu - hổ phục... tiện nghi núi sau - sông trước” mới thoát nghĩa, mới diễn đạt đúng được ý của nhà vua về vị trí của thành Đại La, bởi bấy lâu nhiều sách sử đều ghi “... được thế rồng cuộn hổ ngồi... tiện nghi núi sông sau trước”.

Mộc bản khắc Chiếu dời đô đang được bảo quản ở TTLTQG IV


Bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư do nhiều sử gia từ thời nhà Trần đến nhà Hậu Lê biên soạn (từ cuối thế kỷ XIII đến cuối thế kỷ XVII), là bộ quốc sử lớn đầu tiên của Việt Nam còn lưu truyền đến nay. Bộ sử này được khắc in toàn bộ và công bố lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hòa thứ 18, triều Lê Hy Tông (năm 1697) và là bộ sử Việt Nam cổ nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay. Theo Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ thì, năm Minh Mạng thứ 8 (1827): vua “sai quan Bắc Thành kiểm xét những ván in nguyên trữ ở Văn Miếu về các sách Ngũ kinh, Tứ thư đại toàn, Vũ kinh trực giải (bản in của Quốc tử giám nhà Lê) cùng chính sử trước sau... và Tứ trường văn thể... gửi về kinh, để ở Quốc Tử Giám (Huế)”.

Theo thạc sĩ Phạm Thị Huệ, rất có thể mộc bản Đại Việt sử ký toàn thư, trong đó khắc Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn đang bảo quản tại TTLTQG IV là bản khắc từ thời Lê (1697). Cũng có giả thiết cho rằng Đại Việt sử ký toàn thư được khắc lại vào thời Nguyễn (khoảng từ 1802-1807). Nhưng dù là bản khắc từ thời Lê hay thời Nguyễn thì Chiếu dời đô cũng là di sản rất quý, vì đây là bản khắc cổ nhất (của văn bản này) còn lại tính đến thời điểm hiện nay.

Công Uẩn vốn họ Nguyễn, người Cổ Pháp (Bắc Ninh), mẹ họ Phạm. Ông sinh ngày 17 tháng 2, niên hiệu Thái Bình năm thứ 5 (974). Năm lên 3 tuổi, mẹ phải nhờ nhà sư Lý Khánh Văn nuôi hộ, cho nên sau này ông lấy họ Lý của cha nuôi – Lý Công Uẩn. Lúc sinh thời, thiền sư Vạn Hạnh đã nhận xét về Lý Công Uẩn: “Đây là người phi thường, sau này lớn lên tất có thể cứu đời, yên dân, làm chúa thiên hạ”. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, khi vua Lê Trung Tông (Lê Long Việt) bị Lê Ngọa Triều (Lê Long Đĩnh) giết, quần thần đều chạy trốn, duy chỉ có một mình Lý Công Uẩn ở lại ôm vua mà khóc. Lê Ngọa Triều nể phục khen là trung, phong cho làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Khi Lê Ngọa Triều chết, Lý Công Uẩn được các quan trong triều đưa lên làm vua. Khi lên ngôi, ông xuống chiếu đại xá thiên hạ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Năm 1010 là năm Thuận Thiên thứ nhất.
Là người thông kinh sách, mưu lược, nhìn xa trông rộng, Lý Công Uẩn thấy thành Hoa Lư chật hẹp, giao thông gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế (nông, công, thương...), bởi vậy, ông quyết định dời đô ra thành Đại La và chính tay nhà vua viết Chiếu dời đô.


Theo Lâm Viên - TN





Các bài mới
Các bài đã đăng