Trong thế giới Thiền nầy, các tình tiết khi thì hết sức bình thường, giản đơn như hoa vàng liễu xanh, mày ngang mũi dọc, lúc lại kỳ đặc quái đản khiến người kinh nghi như bụi hồng đáy biển, tuyết trắng trong lò nung. Thiền xa vời huyền bí nhưng lại gần gũi thẳng tuột, bình dị thật tế nhưng lại không hư linh diệu, khó mà nắm bắt, chẳng thể nghĩ suy, chứa đầy những câu đố mẹo hóc hiểm, nhưng càng hóc hiểm càng mời gọi người say mê tìm!. Thiền đối với tâm linh triệu triệu người đã thâm thiết kêu gọi: Về đi thôi, đừng lạc lối quay lại. Mau quay về vườn xưa nhà cũ yên vui của tự thân mình. Thiền căn dặn mọi người Phật tại thân mình, tâm mình là Phật, nếu ai ai cũng ý thức tự tâm thì mọi người đều là Phật. Và cũng vì thế người ta còn gọi Thiền tông là Tâm tông, hay Phật tâm tông.
Đời Đường có thiền sư Đạo Lâm cư ngụ trên nhánh một cây cổ tòng làm bạn cùng chim chóc trong ngọn núi Tần Vọng ở phía Đông nam huyện Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang. Người đương thời gọi ngài là Ô Khoa hòa thượng vì chỗ ngài ở như tổ quạ. Ngày kia đệ tử của sư là Hội Thông đến cáo từ để đi nơi khác. Sư hỏi Hội Thông định về đâu? Thông thưa: “Con vì tầm cầu Phật pháp mà xuất gia bái sư làm thầy. Nhưng từ trước đến giờ thầy chưa từng thuyết pháp cho nghe lần nào, nên con định đi nơi khác để tìm học Phật pháp”. Đạo Lâm nói “Tưởng gì chớ Phật pháp thì nơi đây ta cũng có ít đỉnh!”. Hội Thông hí hửng hỏi: “Thế Phật pháp của hòa thượng là thế nào?” Thiền sư bèn rứt nơi áo mình một sợi vải thổi nhè nhẹ về phía Hội Thông. Hội Thông tỉnh ngộ ngay không còn đòi lặn lội đi nơi khác cầu pháp nữa. Đó là truyện tích “Bố mao thị pháp”. Thiền tông đã gọi những truyện tích như thế là công án. Về sau công án trở thành một trong những tố chất cốt lõi đặc trưng không thể thiếu của ngữ lục Thiền tông, và chính qua các công án nầy mà mật tàng bất khả tư nghì của pháp được lãnh hội qua cảm ứng trực giác. Tinh thần Thiền tông là một vấn đề không thể dùng ngôn ngữ văn tự nói bàn được, chúng tôi tạm quy nạp lại thành năm phần như sau: 1- Tự chủ (Tự kỷ), 2- Sáng tân (Thích nghi), 3- Sùng thật (Hiện tiền), 4- Bình thường (Giản dị), 5- U mặc (Tếu).
1- Tôn trọng tự kỷ: Phật tính là cái mà ai ai cũng có đầy đủ giống như vô số sợi chỉ vải trên chiếc áo mà mọi người chúng ta đang mặc, nhưng trong sinh hoạt hằng ngày do chúng ta bị lún trong muôn vàn công việc phiền nhiễu nên vô tình quên khuấy đi, làm lạc mất “tự ngã” mà không biết cái đáng tôn quý nhất, cái trọng yếu nhất chỉ cần phát hiện ở tại thân mình chớ không phải mò tìm đâu đâu bên ngoài. Việc quên bỏ cái trân quý của tự thân để chạy vạy tầm cầu Phật, Thiền, đâu đâu bên ngoài, Thiền lâm gọi là “Kỵ lư mịch lư”, nghĩa là đang ngồi trên lưng lừa sờ sờ mà lại còn mong tìm con lừa ở đâu đâu. Đây là một cách thí dụ gần gũi, dễ hiểu, đầy tính nhân sinh.
Người tu học chẳng những phải phát hiện tự ngã mà còn phải mười phần coi trọng tự ngã nữa mới được, tức phải xác lập tự ngã là tác dụng chủ thể trong quá trình tham thiền học đạo. Đây là điều mà các Thiền sư thường nhấn mạnh. Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Hoa và Việt Nam ta ngoài phần tư tưởng còn có cả huyền sử và thần thoại trong đó chứa nhiều chuyện thần kỳ về Phật và Tổ. Những nhân vật, Phật, Tổ thần kỳ nầy thần thông quảng đại, pháp lực vô biên, lên trời xuống biển, hiển hiện bất cứ nơi nào, tạo họa giáng phước cho mọi người. Vì thế các tín đồ Phật giáo đã kính cẩn rung sợ vái lạy họ sói cả đầu, từ nhân cách khuất tùng ban đầu dần dần chuyển thành nô lệ mê tín mù quáng, tâm tính nhu nhược biến thành thái độ ngoan đạo một chiều. Trong hoàn cảnh đó đã nổ bùng tiếng gầm thét mạ Phật, lỵ Tổ trứ danh của Thiền sư Đức Sơn Tuyên Giám: “Đối với các Tổ đời trước ta có cái nhìn không phải như thế đó! Trong đây chẳng có gì là Tổ sư, Phật, Thánh: Bồ Đề Đạt Ma chỉ là gã Ấn Độ hôi tanh, Thích Ca Mâu Ni chỉ là cây que quẹt phân, Văn Thù, Phổ Hiền chỉ là đứa gánh cứt” (Ngã đối tiên Tổ để khán pháp tựu bất thị giá dạng! Giá lý một hữu thậm ma Tổ sư, Phật, Thánh. Bồ Đề Đạt Ma thị lão táo Hồ. Thích Ca Mâu Ni thị can thỉ quyết, Văn Thù, Phổ Hiền thị thiêu phẩn hán). Lời phủ định Phật, Tổ nầy không phải là một biểu hiện của thất kính trịch thượng gì cả mà là tỏ rõ tín tâm tuyệt đối ở tự ngã và hiện thực nhân sinh, là điều mà Phật pháp và Thiền luôn coi trọng. Chả thế mà Tuyên Giám được Thiền lâm đánh giá là người thông hiểu Phật lý, Thiền chỉ bậc nhất!.
Tuy nhiên coi trọng tự ngã, tự tâm là nhận thức và khôi phục bản lai diện mục và giá trị trân bảo của tự ngã tự tâm chớ không phải cuồng vọng tự đại bất thiết thực về cá nhân mình. Thiền một mặt nhận rằng về đại thể ai ai cũng có Phật tính đầy đủ, ai ai cũng có thể thành Phật, nhưng đồng thời cũng nêu rõ trong thực tế cuộc sống nhân sinh ở một chừng mực tương đối của cá nhân nầy đối với cá nhân khác thì căn khí chúng sinh có đủ ba bậc thượng, trung, hạ. Không nên lầm chấp thứ bậc tương đối nầy với quan điểm tổng thể “Nhất như vô khu biệt”. Và có nắm được điểm nầy mới có cái nhận thức chính xác về tự kỷ. Phải nhận thức đúng đắn mối quan hệ của tự kỷ với thế giới chung quanh, vị trí thích ứng của tự kỷ trong nhân quần xã hội. Điều nầy như lời ví von của Thiền sư Thanh Mãng đời Bắc Tống: “Đáng làm xà nhà thì làm xà, đáng làm cột chống thì làm cột”.
Thiền tông chẳng những đề cao tự ngã trong thiền lý mà cả trong đời thường. Phái nầy chủ trương “tự làm mà ăn” chớ không trông cậy hoàn toàn vào sự cúng dường của thí chủ. Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải đời Đường làm trụ trì ở Bách Trượng sơn Giang Tây qui định thiền tăng phải thường xuyên lao động, trồng rau, cấy lúa, tự cung, tự cấp, và tự mình làm gương trước. Dù tuổi đã cao nhưng thiền sư ngày ngày vẫn cùng chúng tăng chung sức giẫy cỏ, trồng rau khu vườn chùa. Có lần một vị tăng không nỡ để hòa thượng gian khổ nên đã giấu đi dụng cụ làm vườn của hòa thượng khiến ngài không cách nào lao động được thì ngày đó sư cũng từ chối không ăn cơm. Sư nói: “Ngày nào không làm là ngày đó không ăn”. Vị tăng đành phải đem cây cuốc của sư trao lại cho ngài. Nguyên tắc thiền tăng phải lao động hằng ngày tự cung tự cấp được ghi vào quyển sách “Thiền môn qui thức” và được Thiền lâm đời sau lấy làm phép tắc sinh hoạt của tự viện.
2- Sáng tân: Phật giáo Ấn Độ truyền sang Trung Quốc từ đời nhà Hán rồi trải các đời Ngụy, Tấn, Nam Bắc Triều đến nhà Đường thì số tín đồ coi như đã đạt một tỉ lệ khá cao so với dân chúng toàn quốc. Tuy nhiên kinh điển Phật giáo quá nhiều, văn lý lại thâm sâu áo bí, giới luật tế mật khắc khe, thời gian tu hành để ngộ đạo phải trải qua tháng rộng năm dài khiến lắm người nghe tới phải chùn bước hoặc ngán ngẩm những khó khăn mà phải bỏ tu. Trước tình huống ấy người thật sự triển khai Thiền Tông Trung Hoa, Lục Tổ Huệ Năng đời Đường, đã đề xuất học thuyết “Đốn ngộ”. Huệ Năng đưa ra quan điểm nhân tính vốn xưa nay thanh tịnh cho nên nếu kiến tính là có thể thành Phật. Trong “Pháp Bảo Đàn” - được coi như bộ kinh khai sơn của Thiền tông đã nhấn mạnh: “Nhất niệm tu hành, pháp thân đẳng Phật” hoặc “Nhất niệm nhược ngộ, chúng sanh thị Phật” hay “Nhất ngộ tức tri Phật dã”. Đồng thời Tổ cũng chỉ rõ người không xuất gia cũng có thể tu hành như người xuất gia chứ không cứ gì phải tu tại chùa mới đắc đạo. Tổ Huệ Năng cũng triển khai tiêu đề đặc biệt “Bất lập văn tự” của Thiền tông, tưởng chừng như vô hình chung hủy bỏ hết điển tịch của Phật giáo, hay nói cụ thể hơn là 12 phân giáo mà Giáo tông, tức 12 tông ngoài Thiền tông, luôn tuân thủ nghiên độc. Tiêu đề “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, bất lập văn tự” khiến người tu Phật đỡ cái khổ đau đầu nhức óc, tụng đọc kinh văn.
Tuy nhiên dù chủ trương đặc thù của Thiền tông là “Bất lập văn tự, dĩ tâm truyền tâm, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, dần dần do phải thích nghi với thực tế đời sống xã hội trong đó Thiền tông là một thành phần, mà trong nhân quần thì không phải ai ai cũng có thể lãnh hội qua thị cơ thâm áo, họa hoằn lắm mới có học tăng hội ý tâm truyền của thiền sư nên dần dần do thúc ép của cái chung mà Thiền Tông phải co cụm lại nét đặc thù, tức phải dùng hình thức văn tự để truyền Thiền pháp mà chủ yếu là ngữ lục. Nhìn chung ngữ lục trải qua các thời đại, chúng ta thấy có một chuyển biến rõ nét là về số lượng thì ngày càng nhiều, còn về bề thế thì ngày càng dày cộm, đồ sộ lên. Trong những đời Đường, Ngũ Đại và những năm đầu đời Bắc Tống, ngữ lục của một số thiền sư kiệt suất như các Tổ sư của Ngũ Tông Nhị phái là các thiền sư Qui Sơn Linh Hựu, Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch, Lâm Tế Nghĩa Huyền, Động Sơn Lương Giới, Tào Sơn Bổn Tịch, Vân Môn Văn Yển, Pháp Nhãn Văn Ích, Dương Kỳ Phương Hội và Hoàng Long Tuệ Nam, số lượng bất quá một quyển, cùng lắm là hai hoặc ba, nhưng về sau nầy thì không phải vậy. “Hư Đường hòa thượng ngữ lục” (Tống Trí Ngu Thiền Sư) 10 quyển, “Viên Ngộ Phật Quả thiền sư ngữ lục (Tống Khắc Cần thiền sư) 20 quyển, Đại Tuệ Phổ Giác thiền sư ngữ lục (Tống Tông Cảo thiền sư) 30 quyển, “Thiên Mục Trung Phong hòa thượng quảng lục” 30 quyển, “Vô Dị Nguyên Lai thiền sư quảng lục (Minh Nguyên Lai thiền sư) 35 quyển. Đặc biệt là sự ra đời bộ Bách Nham Lục của thiền sư Khắc Cần, mặc dù bị thiền giới chê trách cách viết vờn văn múa bút, giồi mài tầm chương trích cú của tác giả, vì họ cho rằng làm như thế là đã đi ngược lại tôn chỉ bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm của Thiền tông khiến đệ tử của Khắc Cần là Tông Cảo đã phải mạnh dạn đem bảng gỗ khắc in bộ lục mà đốt đi, nhưng cũng không tài nào ngăn chận được bộ sách lưu truyền mạnh mẽ trong Thiền lâm, thậm chí về sau có rất nhiều bộ sách mô phỏng theo Bách Nham Lục tuần tự hành thể.
Những hiện tượng trên phản ánh sự cải biên phong khí của Thiền tông, từ “Bất lập văn tự” chuyển sang “Đại lập văn tự”, thực tế là từ đời Bắc Tống trở về sau, Thiền tông dần dần coi trọng giáo điển của cổ giáo cùng văn hiến bao đời của bổn tông, coi trọng phương thức truyền thống của Phật giáo dùng việc nghiên cứu văn từ nghĩa lý kinh điển để giải thích Thiền lý. Như vậy Thiền tông cùng các tông phái khác trong Giáo tông đã thu ngắn đáng kể sự khác biệt, không còn nét độc đáo giản hạo, minh quyết, khinh linh, thấu thoát của Thiền tông nguyên xưa.
Người ta hay có thói quen chia Phật giáo Trung Quốc ra hai loại là Thiền tông và 12 tông còn lại ngoài Thiền tông tức Giáo tông và gọi ý chỉ Thiền tông là Tổ ý và giáo nghĩa của Giáo tông là Giáo ý. Một vấn đề được các thiền giả hay thắc mắc đem ra thưa hỏi các thiền sư đắc đạo là giữa Tổ ý và Giáo ý sự dị đồng như thế nào. Để nắm được ý nghĩa chân xác của vấn đề nầy không gì bằng chúng ta nhìn qua một số ngữ lục danh tiếng được trích dẫn sau đây: - Học tăng hỏi: “Tổ ý, Giáo ý giống và khác nhau chỗ nào?” Thiền sư Hạo Giám đáp: “gà lạnh leo cây, vịt lạnh xuống nước” hàm ý chỉ phương tiện tuy khác nhau nhưng mục tiêu là một như để nhằm tránh lạnh giống nhau thì gà và vịt đã dùng hai phương cách đối nghịch, tức con lên cây, con xuống nước. -Tăng hỏi: “Tổ ý và Giáo ý giống và khác nhau thế nào?” Thiền sư Qui Nhân đáp: “Bò ngựa thả chăn chung bầy”, hàm ý phương thức tu tập tuy khác nhau nhưng cũng là Phật giáo. -Tăng nhân hỏi: “Tổ ý và Giáo ý giống và khác nhau thế nào?” Thiền sư Việt Nam Tịnh Không đáp: “Muôn dặm trèo non hay vượt biển đều về chầu cửa khuyết” ý nói phương tiện tuy khác nhau để thích ứng với căn cơ từng chúng sinh, nhưng mục tiêu vẫn là một...
Qua các ngữ lục Hoa, Việt chúng ta thấy rằng vì căn cơ và hoàn cảnh của mỗi chúng sanh có sự khác biệt nên phương tiện tu hành cũng cần thích nghi, chớ Thiền tông hay Giáo tông cũng chỉ là Phật giáo mà thôi. Lời phát biểu của thiền sư Nguyên Lai đời Thanh nêu rõ sự quan hệ chí thiết giữa Thiền và Giáo: “Đại sư Thích Ca Mâu Ni ngồi trên đạo tràng Linh Sơn 49 năm rốt lại nâng hoa thị chúng, cho nên mới có chỉ ý giáo ngoại biệt truyền. Có chuyện ngoài kinh giáo biệt truyền chăng? Tông là giềng lưới của giáo, Giáo là mắc lưới của Tông. Căng một giềng, thì các mắc lưới đều bung ra. Chỉ biết xử lý các mắc lưới mà không rành các giềng mối của chúng là chẳng biết lý lẽ đạo hiệp nhất của Tông và Giáo và điều nầy chẳng khác nào trong đám ngả rẽ lại thêm ngả rẽ nữa. Nếu chịu tìm tòi giềng mối chính trong mớ ngả rẽ chằng chịt kia thì trong Giáo nghĩa đều có Thiền chỉ. Một khi nắm bắt được ý chỉ rồi thì mỗi lời, mỗi chữ đều là Thiền cơ tối thượng. Còn nếu không rành ý chỉ Thiền, lo câu nệ văn tự, thì Tông chỉ biến thành Giáo nghĩa mà thôi.
Một vấn đề quan trọng nữa là tuy Thiền tông lấy chữ Thiền làm tên gọi, nhưng lại phản đối phương thức truyền thống chấp trước ngồi thiền trong tu tập. Lục tổ Huệ Năng đã sắc bén chỉ rõ: “Trụ tâm quán tịnh, ngồi mãi không nằm là bịnh chớ không phải Thiền” (Trụ tâm quán tịnh, trường tọa bất ngọa thị bịnh phi thiền). Không cần tháng rộng, năm dài đọc kinh, cũng không cần trói buộc thân tâm ngồi Thiền, các hành giả từ tuân thủ một cách máy móc hình thức gông cùm trói buộc thân thể cứng đờ như thây chết đã giải phóng thân tâm khiến tâm linh được thư thích khinh khoái, hoạt bát tự tại. Nạt Phật chửi Tổ, dè bỉu kinh Phật nguyên là những tội đại nghịch bất đạo trong tự viện giờ đã trở thành những cơ ngữ hàng đầu. Truyện tích thiền sư Đan Hà Thiên Nhiên đời Đường cởi trên đầu tượng đức Đạt Ma, đốt tượng Phật bằng gỗ để sưởi ấm đã trở thành câu chuyện hấp dẫn trong Thiền Lâm. Thiền là một khoảng trời đất tự do, tự tại của tâm tính. Thiền là một mảnh ruộng vườn vô câu vô thúc của tâm linh. Thiền tùy tâm thích ý như thế, là pháp đốn ngộ giải thoát giản đơn dễ thực hành như thế, thì làm sao mà nó không hấp dẫn mọi tầng lớp nhân quần xã hội cho được!
3- Sùng thật hiện tiền: Thiền sư Tố Tâm, tổ truyền thế thứ nhì của phái Hoàng Long từng nói: “Nếu như kẻ nào chỉ xiển minh lý tự kỷ mà không ngộ hiện tiền thì là người có mặt mà không chân. Còn nếu ai chỉ ngộ chuyện trước mắt mà bất minh lý tự kỷ thì chỉ là người có chân mà mù mắt”. Đây quả là một khái thị đầy đủ ý nghĩa vì người mà không mắt thì cuộc sống tối om om, còn kẻ không chân thì chỉ ngồi ì một chỗ. Thiền sở dĩ có thể soi rõ tâm linh, phát hiện ai ai cũng có Phật tính, truyền bá khắp thiên hạ, bền vững mãi ngàn sau, chính là vì Thiền có đủ cả mắt và chân vậy! Có một vị Thiền sư trụ trì chùa Thê Hiền ở Lư Sơn từng nói với tăng đồ: “Chỉ cần ra khỏi cửa tăng đường, nhìn thấy ngọn Ngũ Lão Phong, là chuyện tham học một đời coi như đã đủ”. Tại sao thế? Vì ngọn Ngũ Lão trong câu nầy là biểu trưng của sự vật hiện tiền. Vậy nhìn thấy Ngũ Lão Phong tức là coi trọng hiện tiền vậy.
Thiền sư thường lại hay dùng thuật ngữ “Cước căn hạ” hàm ý đề cao sự thật hiện rõ trước mắt như có người hỏi hòa thượng Phương Hội là tổ khai sáng phái Dương Kỳ: “Thế nào là đại ý của Phật pháp?”, thì ngài trả lời: “Dưới chân đó” (Cước căn hạ). Hoặc như Thiền sư Trọng Nguyên phái Vân Môn cũng thường hay khuyên môn đồ “Hãy nhìn dưới chân mình thôi” (Cước căn hạ khán thủ). Đây là lời nói cực kỳ bình thường giản dị hiện tiền, hàm ý chỉ những gì hiện rõ trước mắt của mỗi người. Để ý những gì trước mắt, coi trọng việc trước mắt, tham ngộ việc trước mắt, đầu nhập việc trước mắt là đã có thể đạt được yêu cầu của Thiền: “ứng dụng hiện tiền, tùy xứ giải thoát”.
4- Thiền bình thường giản dị: Cũng cần nói thêm một vấn đề nữa về tinh thần Thiền. Nhiều người trùm lên Thiền một màu sắc áo bí xa xăm, lắm kẻ mong tìm thấy nơi Thiền những gì chẩn mật thâm tàng trong khi Thiền chỉ bình thường giản dị. Thiền sư Trí Thông ở tu học trong đạo tràng của Qui Tông. Bỗng một đêm Trí Thông la lên: “Ta đại ngộ rồi!” làm mọi người kinh hãi. Hôm sau giữa pháp đường đông đủ người, Qui Tông hỏi: “Thầy nào hôm qua nói đại ngộ hãy ra đây!”. Khi sư bước ra Qui Tông hỏi: “Ngươi thấy được đạo lý gì mà nói là đại ngộ?”. Trí Thông đáp: “Ni cô là phụ nữ”. Qui Tông hết sức kinh dị gật đầu chứng khả!. Khi thấy được “Ni cô là phụ nữ” là Trí Thông đã thật sự ngộ đặc điểm của Thiền: bình thường giản dị như “ni cô là đàn bà, tăng là đàn ông”. Qua đoạn lục ngữ trên chúng ta cũng đã thấy Thiền không có gì thâm tàng, chẩn mật như bao người hiểu lầm. Thâm tàng hay hiển hiện là tùy cái tâm mê hay ngộ của chúng sinh thôi.
5- U mặc tiếu ngạo: Nói tới tinh thần Thiền Tông mà không bàn đến tính u mặc, trào lộng là một thiếu sót lớn. Chính phong cách đối đáp tếu mà đượm nét thâm thúy ở các công án Thiền đã giúp Thiền Tông vừa bí ảo lại vừa tiếu ngạo hồn nhiên như một lão ngoan đồng. Chúng tôi xin trưng dẫn một số công án tếu lượm lặt từ bộ Thiền thư vĩ đại Cảnh Đức Truyền Đăng Lục: - Tăng hỏi: “Thế nào là đạo?” Sư đáp: “Núi đẹp quá”. Tăng hỏi: “Học nhân nầy hỏi đạo sao sư đáp núi đẹp?” Sư đáp: “Ngươi chỉ biết có núi đẹp chớ có bao giờ đạt đạo mà nói đạo!” - Lý Bột hỏi: “Đại tạng giáo chỉ là cái gì?” Sư đưa nắm đấm lên khải thị hỏi: “Hiểu không?” Lý đáp; “Không hiểu” Sư quở: “Gả học trò khờ nầy, cái nắm đấm mà cũng không biết!” - Tăng hỏi: “Khi cha mẹ chưa sanh ra ta thì lỗ mũi ở đâu? Thiền sư Nam Tuyền hỏi vặn lại: “Vậy chớ khi cha mẹ đã sanh ra mình rồi thì lỗ mũi ở đâu?” - Tăng hỏi: “Thế nào là Tổ”, Thiền sư Khư Minh đáp: “Mặt đen xì, mắt trắng dã”. - Tăng hỏi: “Sáng sớm khi gà chưa gáy thì thế nào?” Thiền sư Đại Đồng đáp: “Thì không nghe tiếng gáy”. - Tăng hỏi: “Khi Phật Nhiên Đăng chưa xuất hiện thì thế nào?” Thiền sư Chí Nguyên đáp: “Thì chẳng có ánh sáng chớ sao nữa” (Nhiên Đăng theo nghĩa thường của chữ Nho là đèn cháy sáng) - Tăng hỏi: “Tổ Phật chưa ra đời thì thế nào?” Hòa thượng Vân Trái đáp đáp: “Thì chưa biết hình tượng”. - Tăng hỏi: “Thế nào là Tổ Sư Tây Lai ý?” Thiền sư Long Nha đáp: “Chừng nào con rùa đá kia biết nói thì ta sẽ nói cho ngươi nghe”. Tăng nói: “Rùa đá đen biết nói rồi kìa”. Sư nói: “Vậy à!... Thế nó nói với ngươi cái gì?” - Tăng hỏi: “Thế nào là chỗ sâu thẳm?” Thiền sư Thục Long trả lời: “Đó là chỗ thằng lùn đi qua khe sâu”. - Tăng hỏi: “Tổ Sư Đạt Ma chín năm nhìn vách là ý nghĩa gi?” Thiền sư Song Tuyền đáp: “Đó là do bịnh mất ngủ nên không ngủ được” (phải thức ngồi nhìn vách mãi). - Tăng hỏi: “Một thương một ngựa xông vào quân địch thì thế nào?” Hòa thượng Quảng Tuế đáp: “Thì rơi đầu chớ còn gì nữa”. - Tăng hỏi: “ở một mình trên chót núi cheo leo thì như thế nào?” Thiền sư Chiêu Hóa đáp: “Tăng đường bảy gian trống rỗng sao ngươi không ở lại lên chót núi cheo leo mà ở để làm gì?” - Tăng hỏi: “Chỉ dung thân trong một trượng vuông thì thế nào?” Thiền sư Cư Sơn đáp: “à, cái đó còn tùy thân hình ngươi ốm hay mập”. - Tăng hỏi: “Khi trời đất còn hổn độn chưa phân biệt thì thế nào?” Thiền sư Hoằng Thông đáp: “Thì là lộn xộn chớ gì nữa”. - Tăng hỏi: “Kiếm báu chưa mài thì thế nào? Hòa thượng Thủy Nham đáp: “Xài không được”. Tăng lại hỏi: “Sau khi mài xong thì thế nào?” Sư đáp: “Đụng vào không được” (vì sẽ đứt tay). - Tăng hỏi: “Thế nào là Phật?” Mãng Thiền sư đáp: “Là người trước ngực để chữ Vạn”. Tăng lại hỏi: “Thế nào là Tổ?” Sư đáp: “Không cần đi Tây phương, chỉ nhìn hình vẽ trên vách”. - Tăng hỏi: “Người xưa chặt tay để nhằm việc gì?” Thiền sư Tuyền Tâm đáp: “à, riêng ta thì không chịu chặt tay đâu”. Thiền trải qua nhiều triều đại ở Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bổn, trong đó có biết bao thiền sư kiệt xuất đã vận dụng tâm cơ suốt cả ngàn năm để xây dựng nên một thế giới tinh thần. Thế giới nầy bám rễ từ một nền văn hóa lâu đời của ấn Độ, Trung Hoa, rồi vươn cành sang một số nước ở Đông Nam á có nền văn hóa lâu đời đa dạng như Việt Nam, Nhật Bổn và Triều Tiên rồi Tây phương nên nó tẩm nhuận sung dật muôn màu, nghìn vẻ, hun đúc thần thái bác đại tinh thâm khiến mọi người tìm thấy nơi đó trí tuệ của tôn giáo và nhân sinh, một trí tuệ tràn đầy phong phạm của văn hóa Đông phương tinh trí, mi lực, và thể cách Âu Mỹ sung dật, thật tế, hiện tiền, khoa học. Đối với một thế giới Thiền bao la như vậy thì chỉ mấy trang biên soạn nầy mà muốn miêu tả tinh thần của nó thì đúng là một chuyện: “Nhật ngọ đả tam canh” thôi! Ngoài ra khi đã dùng ngôn ngữ, mà lại là ngôn ngữ của người đời nay để nói về Thiền qua mọi thời đại thì chỉ là hành động mò trăng đáy nước của anh mù. Cuối cùng xin dẫn một câu nói mà các Thiền sư hay khải thị để đúc kết bài viết nầy: Như người uống nước nóng lạnh tự biết Lĩnh hội chỉ ý, chính mình cảm thôi. L.V.D
(nguồn: TCSH số 207 - 05 - 2006)
|