Trong văn học Việt Nam có lẽ phép sóng đôi đã được sử dụng từ lâu, nhưng đến Chinh phụ ngâm thì đã được sử dụng rất rộng rãi và điêu luyện cả trong bản chữ Hán của Đặng Trần Côn lẫn trong bản tiếng Việt của Đoàn Thị Điểm. Có thể nói biện pháp này được sử dụng rộng rãi nhất ở khúc ngâm này. Hãy đọc đoạn áp chót bài ngâm chữ Hán: Nguyện vị quân hề, giải chinh y Nguyện vị quân hề, bổng hà chi Vị quân sơ trất vân hoàn kháo Vị quân trang điểm ngọc phu chi Thu quân khán hề, cựu lệ cân Tố quân thính hề, cựu tình từ Cựu tình từ hề, hoán tân liên Giảng tân thoại hề, tửu bôi tiền... Ở đây các cụm “nguyện vị quân”, “vị quân” được lặp lại từng đôi, từ “quân” lặp đến 6 lần, từ “cựu” 3 lần, từ “tân” 2 lần, tạo thành một mạch thơ nhất quán, đều đặn, vững chãi, lại có hình thức hồi hoàn rất tha thiết. Đoạn thơ đã được Đoàn Thị ĐIểm dịch thành: Xin vì chàng xếp bào cởi giáp Xin vì chàng rũ lớp phong sương Vì chàng tay chuốc chén vàng Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng Giở khăn lệ chàng trông từ tấm Đọc thơ sầu chàng thẩm từng câu Câu vui đổi với câu sầu Rượi khà cùng kể trước sau mọi lời Sẽ rót vơi lần lần từng chén Sẽ ca dần rén rén đòi liên Liên ngâm đối ẩm từng phen Cùng chàng sẽ kết mối duyên đến già Sức mạnh của phép sóng đôi làm cho tình cảm tuôn chảy dào dạt, như thể không dừng được. Cái hay của phép bài tỉ này là làm cho ý tứ, tình cảm tuôn chảy thành dòng mạnh mẽ nhất quán. Trong các truyện thơ Nôm có lẽ Truyện Kiều là tác phẩm vận dụng biện pháp này phổ biến nhất, tập trung nhất và thành công nhất. Đó là biện pháp miêu tả dòng ý nghĩ, cảm xúc của nhân vật, không thấy có trong truyện Kim Vân Kiều truyện. Truyện Kiều ít nhất có 10 đoạn sử dụng thành công phép sóng đôi trong việc thể hiện nhân vật. Đoạn đầu tiên là tả tâm trạng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích: Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu Buồn trông ngọn cỏ dàu dàu Chân mây mặt đất một màu xanh xanh Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi Bốn lần ngồi trông dồn dập hẳn càng khơi sâu nỗi buồn và cũng đưa nỗi đau lưu lạc lên tới đỉnh điểm. Phép sóng đôi đạc biệt đắc dụng trong miêu tả tâm trạng đau đớn dồn dập: Lần lần thỏ bạc ác vàng Xót người trong hội đoạn trường đòi cơn! Đã cho lấy chữ hồng nhan Làm cho cho hại, cho tàn cho cân! Đã đày vào kiếp phong trần Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi! Nỗi đau xót đã chuyển thành sự đay nghiến số phận bất công tai ác. Một chữ “cho” đem lại một chữ hồng nhan, thì liền đó lại có bốn chữ “cho” tàn hại, vùi dập tới tấp. Nói là cho cân nhưng cân làm sao được! Thà rằng đừng cho hồng nhan cho rồi! Chữ “đã đày” láy lại chữ “đã cho” ở trên, nhưng lại nói toạc cái ý “cho” ấy là “đày”, và đã đày thì thế nào cũng “Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!” Thật không lời nào nói hơn được nỗi đau xót của người mang chữ hồng nhan! Phép sóng đôi cũng đắc dụng trong việc miêu tả sự đam mê: Sinh càng một tỉnh mười mê Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân! Khi gió gác, khi trăng sân Bầu tiên chuốc rượu, câu thần nối thơ Khi hương sớm, khi trà trưa Bàn vây điểm nước, đường tơ hoạ đàn Miệt mài trong cuộc truy hoan Càng quen thuộc nết, càng dan díu tình Bốn chữ khi, bốn cặp tiểu đối, hai chữ càng đã tạo một nhịp điệu truy hoan triền miên, dồn dập không biết bao nhiêu lần, không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua trong các cuộc chơi ấy, không ai tính được đã có bao nhiêu là cuộc chơi, chỉ biết một cuộc mê chơi miệt mài, triền miên liên tục. Tả như thế là cực tả. Đến khi độc chiếm được Thuý Kiều rồi, Thuý Kiều được tự do rồi, mối tình càng say sưa, phép sóng đôi của tác giả cũng tràn trề cảm hứng: Một nhà sum họp trúc mai Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông Hương càng đậm, lửa càng nồng Càng sôi vẻ ngọc, càng hồng màu sen Sáu chữ càng, ba cặp tiểu đối đã tạo thành cái nhịp điệu say sưa tưởng chừng như là vĩnh viễn, không chỉ là nhân vật say sưa mà ngôn từ cũng say sưa, tác giả cũng say sưa, và do đó mà có sức truyền thần say đắm. Nhưng phép sóng đôi này càng đắc dụng khi thể hiện trong lời nói, ý nghĩ của nhân vật, làm cho cái dòng cảm xúc trong tâm hồn tràn cả ra ngoài lời. Chẳng hạn đây là lời dạy của mụ Tú Bà đối với cô Kiều: Này con thuộc lấy làm lòng Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề Chơi cho liễu chán hoa chê Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời Khi khoé hạnh, khi nét ngài Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa ... Đều là nghề nghiệp trong nhà Đủ ngần ấy nết mới là người soi. Hai chữ vành,ba chữ cho, bốn chữ khi với năm cặp tiểu đối đã tạo thành cái say sưa nghề nghiệp của Tú Bà, hễ động đến sự chơi là mụ ta không thể dừng lại được, không thể bình tĩnh được! Nói tới lòng ghen của Hoạn Thư thì phép sóng đôi như làm cho ngọn lửa lòng càng đốt càng cháy: Dại chi chẳng giữ lấy nền Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình? Tính rằng cách mặt khuất lời Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho! Lo gì việc ấy mà lo Kiến trong miệng chén có bò đi đâu? Làm cho nhìn chẳng được nhau Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên Làm cho trông thấy nhỡn tiền Cho người thăm ván bán thuyền biết tay! Mỗi đợt sóng đôi là một cơn lửa cháy, càng cháy càng to, càng nguy hiểm. Trong ngôn ngữ của Hoạn Thư còn hàm chứa cả niềm vui sướng được đày đoạ người khác. Đoạn tiếp sau phép sóng đôi cho thấy đày đoạ người khác là cả một niềm cảm hứng say sưa của Hoạn Thư: Làm cho, cho mệt, cho mê Làm cho đau đớn, ê chề, cho coi! Trước cho bõ ghét những người Sau cho để một trò cười về sau! Lời văn không chỉ có ý, mà còn có tình tràn ra cả ngoài lời. Khi miêu tả cảm xúc của Kiều lúc nhìn thấy lại Thúc Sinh thì phép sóng đôi lại tái hiện được sự xao xuyến, bối rối, không lối thoát của nhân vật: Bây giờ đất thấp trời cao Ăn làm sao, nói làm sao, bây giờ Càng trông mặt, càng ngẩn ngơ Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời Lời văn như truyền đạt được không chỉ ý nghĩ mà còn tái hiện cả nhịp điệu của tình cảm, nhịp điệu dẫm chân kêu trời của nhân vật. Khi bị lừa vào tay Bạc Hạnh, lời văn sóng đôi cũng như tiếng kêu thất thanh và nhịp dẫm chân kêu trời của tác giả và nhân vật: Duyên đâu, ai dứt tơ đào Nợ đâu, ai đã dắt vào tận tay? Thân sao, thân đến thế này? Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi Đã không biết sống là vui Tấm thân nào biết thiệt thôi là thường! Cả đoạn văn câu nào cũng có sóng đôi đã cực tả tình cảm đau đớn tột cùng của nhân vật. Có thể nói ngôn ngữ Truyện Kiều đã sử dụng phép sóng đôi một cách phổ biến với các hình thức, mức độ khác nhau. Sử dụng điêu luyện phép tu từ này Nguyễn Du không chỉ tái hiện được ý nghĩ, trạng thái con người, mà chủ yếu tái hiện được cái nhịp sống, nhịp đập của trái tim, thần thái, tình cảm, sinh lý của nhân vật. Phép sóng đôi đã làm cho văn Kiều có được thêm sức mạnh truyền thần mà không một truyện thơ Nôm nào sánh được. Điều này cho thấy một tác phẩm văn học lớn thì không chỉ đem lại tư tưởng, tình cảm lớn, mà về phương diện nghệ thuật nó cũng làm cho một số biện pháp nghệ thuật trở thành cổ điển. 12-1999 TRẦN ĐÌNH SỬ (nguồn: TCSH số 143 - 01 - 2001) |