NHỤY NGUYÊN
Truyện ngắn
Hải xin nghỉ phép trở về quê như một linh cảm. Tiềm thức mách Hải nên về thăm ngoại. Giữa lúc sóng cồn. Hải bỏ mặc đồng đội trên đảo? Nhất thiết không. Về ít ngày Hải sẽ lại theo tàu chở lương thực sắt thép ra đảo xây âu thuyền; cái âu thuyền dành ngư dân đánh bắt xa bờ trú bão.
Có thể đây là chuyến về quê cuối cùng. Có thể lúc quay trở lại, đảo Sinh Tồn đã thành chiến trường trên biển. Vậy sao Hải lại nhớ Thảo, rồi viễn tưởng đến một cuộc hôn phối chóng vánh, vồ vập. Rồi đi. Thảo cô đơn héo hắt bên ngoại.
Còn mẹ của Hải, họ ở đâu?
- Mỹ quốc.
Hải không hiểu tại sao mẹ lại rũ bỏ ruột rà một cách nhẹ nhàng đến vậy. Họ có cha đỡ đầu, là một trong nhiều tay Mỹ đã lôi chị em ngoại của Hải xuống một căn hầm trút bỏ nhục dục.
Ngày Hải mới là đứa trẻ non nớt trong vòng tay chăm bẵm của bà ngoại, mẹ Hải - “đứa con lai tây” bỏ lại khúc ruột lúc nó chưa có khái niệm về người sinh thành. Rồi mẹ hợp thức vợ chồng với một kẻ khác để cùng nhau qua bên kia bán cầu nhận một người xa lạ làm bố.
Biết khóc và đòi hỏi, Hải bắt đầu mường tượng về mẹ được lồng trong bóng hình của ngoại. Lớn lên chút nữa, Hải nhiều lần gọi ngoại với danh từ: Mẹ. Ngoại mỗi lần nghe gọi cứ “ừ, chờ ngoại chút”. Nghĩ lại Hải không thấy ngượng. Nhìn đôi mắt ngoại biết ngày xưa cô gái ấy đẹp lắm. Nhưng: đôi mắt mù lòa. Ngoại không biết mặt Hải, ngoại cũng không biết đứa con lai đã bỏ ngoại rồi bay trên cái gọi là thiên đường của những kẻ vong quốc. Ai tưởng nổi người phụ nữ với đôi mắt lòa và gần như khô tuyến sữa vẫn có thể nuôi lớn một đứa trẻ.
Tưởng chừng ngoại sẽ gục giữa chừng. Hải, cuộc đời biết đâu bị nhuộm đen. Đấy là lúc Thảo hiện ra, đỡ đần ngoại từ lúc Hải còn ngờ nghệch xem Thảo là người thân phải có trách nhiệm thế thôi. Hải chỉ biết ghi ơn người phụ nữ đó từ lúc Hải biết xấu hổ, không để Thảo tắm giúp nữa.
Hải không biết mình đang trong thời hậu chiến. Hậu chiến là gì nếu không phải những còn lại sau chiến tranh tưởng đã ổn định lại có bàn tay xáo trộn. Cả về tâm thức. Vì lẽ Thảo hơn Hải rất nhiều tuổi...
Hải và đồng đội sống trên biển lửa. Mà biển thì vẫn xanh ngằn ngặt. Xanh đến nao lòng. Giữa biển khơi chống chọi với sóng gió bão bùng khôn xiết. Cả dân tộc hướng về đảo như nơi Hải đứng gác chính là trái tim Tổ quốc.
Trên chuyến xe tồi tàn dân chợ buôn thúng bán mẹt vẫn râm ran chuyện những chiếc tàu lạ lang thang vào thềm lục địa. Lạ thay, thôn quê yêu dấu của Hải, những người dân thuần phác sau lũy tre làng chưa hay gì. Cuộc sống yên bình vẫn đang diễn. Họ không biết chứ đâu phải thờ ơ. Hải không hề muốn mang về tin nóng từ biển Đông. Nếu để bảo vệ ngoại và Thảo, Hải có thể chết ngay trước cổng cũng thỏa mãn huống hồ.
Hải nhớ về Thảo bởi hình ảnh nhiều lúc nước mắt chảy lặng thầm trong tâm hồn người phụ nữ ấy. Lần duy nhất Thảo bật khóc thành tiếng, nước mắt như ứa từ tim là lúc cô dụi đầu vào ngực Hải. Không hiểu nguyên cớ. Hải ôm Thảo thật chặt. Thể trạng đất nước lâm nguy. Tổ quốc đau phía biển Đông, Hải mới chịu buông cảm giác... Không ai hứa hẹn điều gì, hay tự sâu thẳm đã có một điều ước?
Từng bước chân đưa Hải về ngôi nhà nhỏ, anh tưởng đến cảnh sẽ ôm choàng Thảo và ngoại. Khung cảnh lại khác. Nhà vắng. Chiếc giường ở góc, ngoại nằm trên đó. Ốm. Hải tới ngồi bên nắm bàn tay gầy. Ngoại ngước lên nhìn. “Cháu Hải đây ngoại ơi”. Đỡ ngoại ngồi dậy, Hải nhìn đôi mắt đẹp. Đã qua thời thanh xuân, ánh nhìn đã mòn sao vẫn cuốn hút lạ. Nếu ngoại có già méo xệch răn reo, đôi mắt kia là dấu ấn còn lại của một người con gái đẹp.
Ngoại nói phải kể cho Hải nghe câu chuyện cuộc đời hai chị em sinh đôi là ngoại mà một người đã nằm dưới căn hầm sâu nào đó - không nhớ. Hai chị em giống nhau đến cả cái gáy, nhìn sau nhìn trước đều nhầm. Nếu anh em trai biết đâu cũng là tấm bia đỡ đạn cho xóm làng, đằng này bọn ngoại chỉ là cái thứ vui thú cho giặc. Hai chị em tối đó họp du kích xóm, lúc về liền bị bắt. Chúng bịt mắt giải đi trong đêm, rồi cùng xuống một căn hầm chiếm được của bộ đội. Ngoại còn nhớ mặt thằng giặc đầu đàn, từ đó tới nay chưa hề gặp lại; chỉ thấy quen quen qua nét mặt của đứa con lai...
Thảo về. Đôi quang gánh đặt bên cái nhăng rêu bám. Hải nhìn ra, dường như trong phút ngơ ngẩn anh quên luôn cả ngoại. Hải ghìm mình ngồi yên, nhìn. Thảo nhấc xô nước đổ vào nhăng... Sức nén của Hải có hạn, cái gì đó muốn bật tung. Hải lao ra và ôm xiết người con gái. Thảo vùng mình đến đứt cả vòng tay khóa chặt ấy. Sức mạnh ghê gớm, cứ như nó được truyền lại từ thời con gái của ngoại lúc vụt chạy khỏi hầm. Hải. Thảo chết lặng và thấy mình được nhất bổng khỏi mặt đất. Chốc thôi, nét mặt Thảo bỗng sắc lạnh. “Sao Hải bỏ đảo mà về!?” Câu hỏi hay lời quở trách. Hải vui sướng. Hải đang có một “người lớn” chăm sóc, để sự trẻ trung bạo liệt của mình không vượt khỏi bão tình.
Nơi đây, những đồi chè tiếp nối. Trên chuyến tàu trở về, Hải hết ngồi lại đứng ở cửa sổ toa nhìn quang cảnh, mới thấy đất nước nên thơ. Cái đẹp phong nhã tựa người con gái quê lặng lẽ tỏa hương, cứ thâm trầm thấm vào tâm hồn thứ cảm xúc không thể dứt ra. Lần Hải xuất ngũ Thảo hái những đọt chè non mởn vừa hé cho vào cái ấm đất, một kiểu trà tươi đầu tiên Hải cảm nhận. Đơn giản vậy thôi, hễ nhớ quê vị chè cứ gờn gợn rồi luênh loang trí não. Nhiều đêm ngồi gác trên đảo Sinh Tồn, Hải ước có thể nhảy xuống bơi một mạch về đến nhà, cho dù kiệt sức trong vòng tay ai đó. Hải lại xách đàn ra mép nước và hát “nơi anh đóng quân là một vùng đảo nhỏ, bên đồng đội yêu thương, chỉ có loài chim biển, sóng vỗ điệp trùng quanh ghềnh trúc san hô...”, hy vọng biển sẽ chuyển âm thanh về với người phụ nữ còn thức giữa vời vợi đêm.
“Trai gái bây giờ có cách biệt nghìn trùng vẫn may mắn hơn hồi chiến tranh”. Ngoại nói trong tắc nghẹn. Mỗi lời phải đổi lấy nước mắt. Mỗi dòng trong câu chuyện buồn của ngoại phải hao một giọt máu từ trái tim đang héo tàn kia.
Hầm tối. Chúng mở dải bịt mắt cho chị em, không ai hay gì mãi lúc sau mới thấy một khuôn mặt dài lộ dần dưới ánh sáng của ngọn đèn bão. Rồi nhiều tên nữa, ồ lên kỳ cục...
Ngoại ho, nhổ máu và đờm. Thảo chạy ra nhúng khăn lau và đỡ ngoại nằm xuống, vuốt ngực. “Ngoại đừng kể nữa”. Ngoại không biểu hiện, mắt khẽ nhắm. Ngọn điện hắt sáng từ phía bàn thờ. Hải dắt Thảo ra ngõ, thong dong trên con đường men theo sườn núi, bên tay trái là nương chè bậc thang bát ngát đến chân trời mờ xa.
- Có đánh nhau thật không anh?
Hải hơi bất ngờ, quay nhìn.
- Thảo cũng biết chuyện xung đột biển đảo?
- Hôm kia Thảo chở chè lên thị trấn bán nên nghe được.
- Thật ra... chúng anh ngoài đó luôn trong tâm thế của người lính xông trận. Không dám nghĩ đến tương lai...
Thảo lặng, Hải cũng thấy không nên nói thêm. Một đoạn khá xa, Thảo đứng lại, chủ động choàng tay ôm Hải, rất lẹ làng.
- Thời gian ngắn quá, có lẽ không kịp... có lẽ ta chỉ xin cái giấy kết hôn.
Thảo ôm Hải chặt hơn, và cô khóc.
- Thảo đợi. Chị em ngoại xưa thiệt thòi hơn Thảo, đau khổ hơn trăm nghìn lần...
Hai người trở về đã khuya, trăng sáng hơn. Ngoại ngồi đầu giường, đặt trên bàn ăn cuốn vở. Khuôn mặt ấy tươi hơn làm sáng từng nếp nhăn. Không kể nữa, không kể nổi nữa. Ngoại viết.
...Hắn muốn biết ai là chị ai là em. Cả hai lắc đầu. Hắn chỉ vào một người hỏi “chị?”; hắn lại chỉ vào người bên cạnh “chị?”, lắc, hỏi tiếp: “là em?” cũng lắc nốt. Hai chị em làm người câm. Hắn thôi khỏi cần biết ai sinh trước… Khuya, hắn vứt một người cho tụi lính chung nhau. Còn hắn giữ lại một cho tới thời điểm người ấy vuột khỏi tầm tay.
Thảo trở dậy tới bên bảo ngoại ngủ. Ngoại vẫn cặm cụi từng nét viết trong mù lòa, thứ chữ rành rọt từ hồi học cấp hai; cũng bây giờ ngoại mới viết nhiều trang như một bài tập làm văn hồi phổ thông như vậy. Hải khoác áo tới bên. Tự dưng ngoại ngẩng đầu, vẫn đắm mình trong không gian của mấy chục năm trước, cứ như ngoại vẫn kể câu chuyện buồn từ nãy. Ngoại rút cái khăn màu đen từ túi áo thấm nước mắt.
Quân hắn ác lắm! Cháu hãy hình dung mỗi lần chúng găm vào chị em ngoại...
Hải vô tình nhìn những dòng chữ dở dang trước mặt... Một đứa con gái non tơ không chịu nổi sự cuồng thú. Lần ấy đau quá cô gái xin tha nhưng bị cự tuyệt. Đau thấu tim. Cô quyết liệt kháng cự. Hắn tát cô gái ngã dúi rồi túm tóc lôi tới gần ngoài hầm ném vào giữa đám lính. Cô gái cứ xin, không cần biết chúng sẽ tha cho bản thân hay cho em mình. Đứa em tội nghiệp ngóc đầu dậy, phản kháng bằng việc cắn đứt lưỡi. Cô gái nhào tới… Ngước mặt kêu trời cô không thấy trời, chỉ thấy vệt sáng xuyên vào qua nắp hầm như tia hy vọng mong manh.
Thảo đỡ ngoại nằm xuống. Ngoại ho thốc. Thảo lại vuốt ngực, ra giếng giặt chiếc khăn đen thấm máu.
Hải sợ mất ngoại, nắm chặt thêm đôi tay gầy. Ngoại vẫn tỉnh táo, bảo Hải ngày mai đưa Thảo lên phường làm giấy kết hôn, vậy là đã vợ chồng rồi. Ngoại còn dặn mai này cha mẹ có về, tình cảm tùy nơi cháu nhưng tiền bạc thì đừng nhận. Hải dạ.
- Nếu ông con có trở về...
- Cháu không nhận ai làm ông đâu!
- Không... cháu ạ, cháu còn có một người ông rất đáng kính... đó là người yêu của em gái ngoại.
- Sao ạ?
Ngoại chỉ về phía cuốn sổ.
Thảo nép bên vai Hải lặng lẽ trôi theo những dòng chữ buốt nhói.
Căn hầm này nằm ở vùng nào? Cô gái sống trong bóng đêm suốt thời gian bao lâu không thể tính nổi. Bom đạn cày xới. Chiến tranh tàn khốc, riêng cô gái còn lại trong hầm tối vẫn mù mịt thông tin. Hiếm hoi lắm mới nghe tiếng bom. Thèm lắm. Tiếng bom âm âm dội xuống hầm không rõ của ta hay giặc luôn làm sống lại một tế bào. Cô quyết định làm thay nghĩa vụ của em gái bạc phận: đến với bọn lính để chiếm lấy cơ hội tiến gần hơn cửa hầm.
Vẫn những khuôn mặt lợm mửa. Vẫn cái màu nhá nhem tối lẫn chút sáng của ngọn đèn ẩm ướt. Cô gái phải phục vụ một tên lính trẻ. Ba tên đã ngủ, không rõ trưa hay tối. Mấy ngày nay vắng hẳn mấy khuôn mặt, có lẽ đã lặn xuống đáy hầm. Khuôn mặt trước cô gái có vẻ hiền. Tên này từ lâu vẫn rất nhẹ nhàng và phần nào đó che chở cô. Nhưng lúc đó cô đã phụ hắn. Ngoài ý muốn. Hắn được cử gác hầm, và cô đã mồi chài, kéo hắn vào cơn mê sảng... Cô thốc nắp hầm vụt ra ngoài. Quê hương chào đón. Một bầu trời đầy ắp ánh sáng. Thứ ánh sáng trong veo mắt mèo lạ lẫm trước một người con gái từ lòng đất xuyên lên đã ùa vào đôi mắt đẹp huyền diệu. Cô chỉ thấy quầng đỏ nhóa nhòa. Và, tắt ngấm! Nhìn quanh, nhìn lên, dụi mắt, nhắm, mở... tất cả chuyển qua màu tối. Đen ngòm. Đôi mắt thiên thần ẩn vào bóng tối. Cô gào lên và chạy. Cũng là đêm tối nhưng ít ra cô đang chạy dưới bầu trời, còn hơn phải chui xuống căn hầm có quỷ. Cô vẫn gào, chạy, máu tóe dưới chân. Một nhánh cây kéo toạc tấm áo mục, cô ngã vật. Đúng ra ai đó đã níu, quật ngã và lôi cô vào bụi rậm. Bàn tay thô bịt miệng cô. Ngoài kia, ba tên lính liều mạng chạy đuổi theo cô gái.
- Im nào! Anh đây Thương ơi...
Giọng quen thuộc, cô dơ mặt lên nhìn. Màu đen. Cô gái không thể và không bao giờ thấy khuôn mặt ấy nữa. Giọng nói ấy hiện nguyên hình người con trai là người yêu của em gái mình. Cô òa khóc.
- Im nào.
Cô gái muốn hét: “Không, Thương đã chết rồi, chị Hoài đây mà, không phải Thương của em đâu”. Nhưng tắc nghẹn. Hay cô không muốn bật ra sự thật đó.
Bây giờ là bốn tên giặc. Chúng chia nhau ra lùng.
Người con trai:
- Thương cứ nằm yêu đây.
Cô gái gật đầu.
- Để anh đánh lạc hướng.
Cô gái níu áo người con trai.
- Đừng lo, phía bên kia đồi có anh em du kích, nổ súng thì chúng cũng chết.
Chàng trai lao đi. Cô gái không biết người con trai chạy về hướng nào. Tiếng chân, tiếng người. Năm phút... đoành! Cô gái giật mình. Đ..o..à..nh…! Sững sờ. Ai bắn? Ai chết? Thai nhi lai tây cựa quậy. Bụng đau ran. Cô gái cắn môi bật máu.
Trang giấy trắng. Thảo và Hải lặng lẽ nhìn nhau, nhìn qua giường ngoại. Đã ngủ. Thảo tới đắp chăn cho ngoại, không nằm bên như thường đêm. Hải chưa ngả lưng, và Thảo tới ngồi cùng trên tấm phản vẫn vang lên tiếng mọt nghiền canh khuya.
- Nếu giặc đến liệu có giữ được đảo...?
Hải vẫn nhìn tấm chăn Thảo vừa đắp để biết những nhịp thở của ngoại còn đều.
- Không chắc, nhưng có một sự thật là anh và đồng đội sẽ giữ đảo đến giọt máu cuối cùng.
Quầng mắt Thảo úng nước.
Ánh trăng đầu thu treo bên hiên như khối hổ phách chảy rệu.
- Anh may mắn lắm Thảo à, may mắn hơn nhiều đồng đội trên đảo. Giọt máu cuối cùng… anh đã gửi nơi em.
N.N