Cái yếm nâu để đi làm; yếm hồng, yếm thắm, yếm đào đi hội; chiếc áo cánh khoác hờ lên; chiếc váy nâu gụ - màu của đất hay chiếc áo dài tứ thân, năm thân và cả chiếc áo dài tân thời khởi từ những năm 30 của thế kỷ này đi nữa đều là bản hoà ca của màu, sắc và chất liệu. Đó là lần nhập thân đầu tiên của chất liệu vào truyền thống thẩm mĩ dân tộc. Lần nhập thân thứ hai, lụa hoá thân vào nền nghệ thuật tạo hình dân tộc - mĩ thuật của người Việt. Khởi điểm cho cuộc hóa thân ấy, có thể là đã rất dài lâu từ khi có sự hiện hữu của lụa, cũng có thể là mãi ở thế kỷ XVIII-XIX với những tranh lụa vẽ phong cảnh, vẽ Phật hay chân dung Nguyễn Trãi, Phùng Khắc Khoan... còn lại đến giờ - về điểm này, cho đến nay, chúng ta chưa có một mốc niên đại chính xác. Đúng hơn, có lẽ là phải có một sự dấn thân dài lâu của những người nghệ sĩ vô danh để phát hiện ra những vẻ đẹp của chất liệu mà kết quả là tranh lụa đã phản ánh chính xác cái thần của văn hoá Việt, một nét trong trạng thái tâm hồn Việt. Cuộc nhập thân lần thứ hai này đã mang lại cho lụa nhiều lắm nhưng trước hết và trên hết là đánh thức khả năng của chất liệu và thức nhận không gian của tranh lụa để chiếm lĩnh nó theo mắt nhìn của thẩm mĩ Việt. Tranh lụa Việt Nam truyền thống thường cắt hẹp không gian và dàn về đường nét, sắc màu ra sát mép tranh chứ không để trắng không gian tranh bằng nền lụa nhiều và thoáng như tranh lụa Trung Quốc cũng không nhiều tranh sinh hoạt, lâu đài, thành quách và thần linh như truyền thống tranh lụa Trung Quốc và Nhật Bản. Tranh lụa Việt Nam không đứng riêng mà là có nét riêng, mang đậm cảm thức và phong cách sống của văn hoá dân tộc. Nhưng lụa sẽ chỉ mãi mãi là ký ức vọng về từ truyền thống nếu không có cuộc tái sinh trở lại vào nền mỹ thuật dân tộc được diễn ra từ những năm 30 của thế kỷ này. Chính trong bầu không khí đặc nghẽn những xu hướng mới đến từ cuộc tương hợp Đông - Tây, nền mỹ thuật dân tộc đang náo nức trước chất liệu mới: sơn dầu, những tưởng chất liệu lụa truyền thống đã mất hẳn chỗ đứng trong cuộc sống hiện đại thì ngược lại, đã có một cuộc tái sinh. Có lẽ những trở mình chật vật trong từng con người và sự thành hình một cái nhìn về thế giới đã vừa là cơ sở cho một không gian tạo hình mới, vừa đánh thức những thức nhận về truyền thống để có được một lần hồi sinh. Từ Nguyễn Phan Chánh rồi Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Lê Thị Lựu, Nguyễn Tiến Chung, Lương Xuân Nhị... đã thực sự hồi sinh cho lụa.
Hãy bắt đầu từ Nguyễn Phan Chánh. Nền nã và bình dị làm một người nhà quê trong nghệ thuật hiện đại với: Chơi ô ăn quan, Lên đồng, Rửa rau cầu ao, Em bé cho chim ăn... từ những bài học trong nhà trường về lối tạo hình trên sơn dầu, áp dụng phép viễn cận của hội hoạ cổ điển Âu châu, Nguyễn Phan Chánh đi vào tranh lụa. Ở tuổi 39, 40 của đời mình, Nguyễn Phan Chánh đã đạt đến đỉnh cao của sự nghiệp nghệ thuật và tạo lập một bước ngoặt quan trọng cho nghệ thuật tranh lụa Việt . Bình tĩnh và tự trọng để là mình qua tiếng vọng gián tiếp của thời gian và hồi tưởng - một quãng lùi mơ hồ để Nguyễn Phan Chánh là Nguyễn Phan Chánh. Tôn phẩm chất của lụa, cái vẻ trắng ngà óng ả và tươi mát qua chất da thịt mịn màng của người phụ nữ và gam màu nâu đen đậm đà, thô mộc qua bố cục theo lối bố cục tranh giá vẽ của Châu Âu, gần với tự nhiên của mắt nhìn hơn tranh lụa truyền thống, Nguyễn Phan Chánh đã dồn hết cái "tâm chất tinh thần" của mình bừng sáng trên lụa và cho lụa để tạo thành "thời cổ điển của Nguyễn Phan Chánh" (Chữ của Thái Bá Vân). Để rồi nửa thế kỷ sau đó, cho dù ông có cố gắng để lăn mình vào hiện thực, đằm trong xóm làng quê hương, trau dồi lại hình hoạ hàn lâm, bồng bềnh theo những cảm xúc mới với đĩa màu trở nên xanh non và nâu non thì cũng không thể nào tìm thấy lại sự thăng bằng cổ điển ấy - "Không có hai mùa xuân trong một đời người", Văn Cao chẳng đã từng nói vậy. Từ Nguyễn Phan Chánh nền nã, bình dị; thiều quang Lê Phổ ở thời kỳ cổ điển (từ 1934 đến 1945) với Người thiếu phụ ngồi, Chim ngói... ảnh hưởng nhiều của hội hoạ Đường - Tống với nét bút thanh thoát, mềm mại; vừa mong manh, tế nhị, vừa lạnh lùng, chay tịnh qua độc sắc; Lê Thị Lựu êm dịu ánh sáng, nhẹ nhàng sắc màu, mềm mại trong nét bút; rồi Nguyễn Thụ, Kim Bạch, Lương Xuân Đoàn... với nhiều tìm tòi đã tạo cho tranh lụa Việt Nam những bước đi song hành cùng thời đại và là hiện tại với nghệ thuật. Đi trọn đến cuối con đường, lụa, qua ba lần thấu nhập vào cõi người, ba lần phô diễn những khả năng của chất liệu. Đặt một nét bút trên lụa, nét bút đi êm và ngọt, mảng màu thấm nước và loang vừa độ. Lụa vốn mang sẵn cái đẹp nõn nà, óng chuốt và thanh nhẹ như tạng chất Á Đông, khác biệt với chất đặc sánh của sơn dầu, bản chất lộng lẫy và huyền thoại của sơn mài. Màu sắc tranh lụa không chói chang về sắc độ, không đối chọi nhau mà mảng màu phải nhẹ đi, đến nỗi cái sắc trắng tinh, vô bản sắc cũng phải thấm nhẹ một màu nâu hay lam nhạt. Và chính như thế lại càng tạo trong người thưởng ngoạn những cảm giác về sắc trắng thật, tinh khôi chứ không phải là cái màu trắng tinh những vô bản sắc. Yêu tha thiết cái cuộc sống giản dị và êm ái, nồng nàn trong vẻ bề ngoài giản đơn và u tịch, thế giới phiếm định của lụa không là thực mà được gián tiếp hoá. Phiếm định không gian, phiếm định thời gian, không gian của lụa không dung hiện thực của mắt nhìn, cũng không nuốt trôi mọi táo tợn trong thể nghiệm, nó chỉ đón nhận những tâm hồn an bằng, trọn lòng cho nghệ thuật. Bởi thế, các họa sĩ trẻ hôm nay không thật gần với lụa. Mê mải trong những thể nghiệm của hình và sắc trong sơn dầu hay lăn lộn để mở ra cho sơn mài một phổ màu rộng hơn nhưng ít người trong họ mặn lòng để thức nhận những thế mạnh của chất liệu lụa. Các cuộc triển lãm gần đây có thật ít những tranh lụa thành công. Để tìm thấy lại một mùa cổ điển cho lụa, liệu ta còn có thể mong chờ một cuộc nhập thân với những tao ngộ mới chăng? Điều này không hoàn toàn là viễn tưởng. Bởi một chất liệu đã có truyền thống trong nền mĩ thuật dân tộc với những thế mạnh đã được khẳng định so với các chất liệu khác, tranh lụa ẩn chứa một trạng thái của linh hồn dân tộc thì chất liệu đó sẽ không bao giờ là lạc hậu với thời đại. Hơn thế, khi mà những tiến bộ kỹ thuật của nền văn minh kĩ trị đang dần đưa con người rời xa với tự nhiên thì lụa với bẩm chất tự nhiên, vừa thô mộc, vừa sang trọng hoàn toàn có thể tìm thấy chỗ đứng của mình. Chỉ có những con người đang bất lực trước ngôn ngữ của chất liệu. L.V.T
(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)
|