HỮU PHƯƠNG
Nắng gắt. Những đợt gió Lào đầu tiên ồ ồ thổi qua cánh đồng đất cát, cuốn bụi mù mịt, ném cát vào mặt lão Điều. Lão bước vội vã, lúp xúp. Đúng hơn là lão lủi, dọc theo bờ phi lao cao bằng đầu người, cằn cỗi và vàng hoe, mắt dớn dác trông chừng bốn phía.
Theo sau, con chó vàng cụp đuôi, bám theo gót chân lão, như thể tỏ rõ sự tận tụy với chủ. Thỉnh thoảng nó cũng dừng lại, giỏng tai nghe ngóng, dáng điệu y hệt lão.
Chẳng có ai nhìn thấy lão cả. Ai nhìn lão mà làm gì? Người ta còn bận túi bụi với mùa màng đang chín rộ, phải gặt xong trước cơn lũ tiểu mãn, cấy lúa hè thu, gieo mạ vụ mùa, cày ải kịp thời vụ…Trăm nghìn công việc! Chỉ có lão là rảnh rỗi. Vì tuổi bảy mươi, lão làm sao nhận nổi ruộng khoán?
Cho nên, lão chuyên trồng dưa, nhẹ nhàng và thu nhập khá. Cả một vùng cát chạy từ đường quốc lộ đến ven biển, có một thời bốn năm tháng chỉ xanh dưa. Dưa của các đội, dưa của cá nhân, mênh mông chi xứ!..
Lão Điều lẫn vào nhà, đúng hơn là vào lều. Túp lều ở bìa làng, rạ lợp đã mốc thếch, nhưng cột tre cắm xuống đất vẫn còn xanh; dựng đã được vài năm, từ khi lão bỏ vùng kinh tế mới trở về.
Thực ra, đời lão ít nhất hai lần đã có nhà to. Lần thứ nhất, khi lão còn thanh niên, chưa vợ, hoạt động trong đội du kích, ở với cha mẹ. Hai anh đầu của lão đã có gia đình, ở riêng. Khi cha mẹ mất, hiển nhiên cái nhà to ấy là của lão. Lần thứ hai, khi hòa bình lập lại, lão chạy không kịp theo anh trai vào Nam, phải ở lại miền Bắc, làm ăn cùng vợ con trong hợp tác xã. Ngôi nhà thứ hai này xây cất đàng hoàng, tường quét vôi ve, mái lợp ngói đỏ, có phòng lồi và ban công đổ bê tông hẳn hoi. Nó vẫn còn đó, ở giữa làng, nhưng không còn là của lão nữa! Lão tiếc đứt ruột, nhưng đành ngậm bồ hòn. Bây giờ lão một mình chui đụt trong túp rạ đơn sơ và tồi tàn này. Thế mà, đời vẫn chưa thôi trả đũa lão những cái tát đau điếng và nhục nhã…
Cũng tại lão cả thôi. Không, nói cho chính xác thì cũng tại một phần ở đàn bà. Không đúng à? Lần mất nhà thứ nhất gắn với con đĩ Loan. Chồng nó đi lính cho Pháp chết trận, khi nó mới một đứa con. Nhà nó ở đầu làng, cạnh cây đa cao to, bên cái giếng làng hình vuông xây bằng đá tổ ong, nước trong văn vắt. Gốc đa sần sùi vết dao chém, vết đạn găm, và chằng chịt rễ xắn vặn như những vết sẹo. Ngang đầu người, có treo một cái kẻng bằng vỏ bom. Ở chạng ba cao chót vót có đặt một cái sạp, bằng mấy que tre buộc ngang dọc, làm chỗ đứng cho chòi quan sát. Đấy là vọng gác của quân du kích làng Nam Phúc. Giặc từ đồn Hoàn Lão, đồn Chánh Hòa, thậm chí cả đồn Sen Bàng, đồn Am Tiến ở phía tây xa hàng chục cây số có động tĩnh, là ở đây biết ngay. Và tiếng kẻng báo hiệu vang lên…
Gái một con trông mòn con mắt, Loan lười việc đồng áng nhưng giỏi nấu rượu lậu, nên trông ả càng trắng trẻo, nõn nà, như thể gái mười tám, khiến chàng trai tơ Điều không đừng được, phải lén lút thậm thụt đi lại.
Đêm ấy rất thuận lợi, trời tối như bưng. Tối đen tối đặc, tưởng có thể xắn ra được từng lát. Phiên gác của Điều bắt đầu từ nửa đêm. Bốn bề yên tĩnh. Chìm trong giấc ngủ của con người và cây cỏ, là tiếng côn trùng ri rỉ lứa đôi. Chỉ có ngọn đèn hạt đỗ bé tí lé ra ở buồng nhà Loan, như muốn nói điều gì. Đêm cuối xuân sương xuống lành lạnh. Bây giờ mà uống một ly rượu cốt, và… Chậc, thằng địch bây giờ cũng lo ngủ với vợ con, chứ dại gì đi đâu. Đầu đang nghĩ mà chân Điều đã đi về phía ấy lúc nào…
Không biết lúc đó là mấy giờ, tiếng súng nổ chát chúa bên tai dựng Điều dậy. Trời sáng rõ. Thôi chết rồi! Giặc đã vây kín bốn bề. Gã lao ra vườn, lủi ra cổng sau định chạy lên phía rừng thông, nơi căn cứ du kích. Nhưng gã bị ngay hai tên lính Lê Dương, như đứng chờ sẵn, quật ngã trói gọn. Cả làng Nam Phúc chìm trong khói lửa, trong tiếng súng nổ, tiếng la hét gào thét của người và súc vật. Ngôi nhà của gã, bằng gỗ gỏ và lim đen bóng, thành tro than trong dịp ấy.
Mười hôm sau, những người đi chợ Đón đã thấy gã, trong bộ quân phục màu cứt ngựa, đầy những túi là túi, mũ chào mào, kẹp súng mát, đi lại nghênh ngang trong đồn Hoàn Lão. Gã đã thành một tên phản bội từ đó. Gã viết thư gọi hai anh trai bỏ hàng ngũ du kích, về hàng Pháp. Thế là ba anh em gã, được sung vào lính, đoàn tụ trong cái hàng rào kẽm gai của đồn Hoàn Lão, căn cứ trung tâm của quận lỵ Bố Trạch, nơi đầy rẫy Tây đen và gái điếm, mà bấy giờ gã Điều say mê gấp mấy lần ả đĩ Loan của gã ở quê. Liền mấy tháng sau đó, nhiều du kích làng Nam Phúc và mấy làng lân cận bị chặt đầu, bêu trước cổng chợ.
Gã Điều, chẳng mấy chốc đã lên đến chức đội nhất, khét tiếng gian ác, được Pháp tin cẩn. Đi đâu cũng được lính tháp tùng bảo vệ. Như một con gà chọi say máu, gã lao vào bắt bớ chém giết, và chơi bời trác táng thâu đêm, chẳng nể sợ ai. Trong một lần bố ráp, gã gặp một cô giá xinh đẹp, con gái ông Cửu Sang, ở làng Chùa, và gã nhất quyết cướp cho bằng được!
Gần ngày đình chiến, có một sự xúi quẩy cho ba anh em nhà gã. Người anh đầu, thậm thụt với một ả góa ở xóm bên, bị du kích đón đường, tương cho một băng súng máy vào ngực. Còn gã suýt chết trong một trận càn, bị một viên đạn găm vào phổi, phải vào viện mất mấy tháng. Chính vết thương ấy đã làm cho gã bị bỏ rơi lại, khi người anh thứ hai kịp xuống tàu, di cư vào Nam.
Nhiều khi gã lấy làm lạ là tại sao người ta không giết gã? Đôi bàn tay của gã đã nhuốm không biết bao máu người! Có lẽ cái câu phương ngôn “Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại” của người xứ này, đã cứu gã. Người ta chỉ đưa gã đi học tập, cải tạo vài năm, rồi trả về với vợ con. Bấy giờ người ta chỉ nói đến chuyện xây dựng hợp tác xã, đến chuyện sản xuất và chiến đấu chống Mỹ. Không ai nhắc đến chuyện của gã, người ta cố quên đi cho gã.
Nhưng gã thì gã không quên, gã vẫn nhớ. Thậm chí lão vẫn tin có ngày… Ừ, có ngày gã trở lại sung sướng như thời sống vương giả trong đồn Hoàn Lão. Niềm tin ấy là nguyên nhân gã mất ngôi nhà thứ hai…
Niềm tin ấy vẫn sống ngắc ngoải trong đầu gã, thầm kín, không ai biết được, kể cả vợ con! Bởi bên ngoài, gã đã là một nông dân cần cù, chăm làm lụng. Quần đùi xanh lấm tấm bùn và áo bà ba đen bạc phếch, đầu đội cái nón mốc xám, gã lùi lũi đi theo con bò và cái cày một cách mẫn cán. Đôi khi vui miệng lão còn cất lên điệu hò giã gạo (mà gã hò mới hay làm sao!) trêu ghẹo mấy mẹ mấy o ở tổ cấy. Chẳng còn lại dấu vết gì của một anh lính đóng lon đội nhất nổi tiếng tàn bạo ngày xưa trên con người gã Điều. Trừ đôi mắt đôi lúc chợt lóe lên vẻ thâm ác ít người nhìn thấy, và hai chiếc răng vàng đứng cạnh nhau ở khóe miệng trên, thỉnh thoảng cũng lóe lên như đôi mắt. Có sức khỏe, lại sẵn nhân công lao động, hai vợ chồng và ba đứa con trai đến tuổi, đã làm cho đời sống gia đình gã ngày càng tấn tới. Có của ăn của để. Xây nhà, lập vườn trồng tiêu, đào ao thả cá, kinh tế gã vào hàng khá giả nhất nhì ở cái đội sản xuất này.
Bây giờ gã đã lên lão lâu rồi, gầy guộc và khô đét. Vết thương ở phổi vẫn hành hạ lão luôn. Không biết nó nhắc nhở lão hay cảnh tỉnh lão điều gì. Ba thằng con trai tuổi sàn sàn nhau đã lần lượt lập gia đình, làm nhà ở riêng. Ai cũng nghĩ, đời lão thế là thỏa mãn, không còn mong đợi gì hơn nữa!
Thế mà, lão vẫn còn mong đợi. Không ai biết lão vẫn còn mong đợi. Người đời thường nói, chết đít cà cuống vẫn cay, có lẽ không sai đối với lão. Người anh trai thứ hai của lão mắc kẹt ở Sài Gòn, không kịp di tản sau Ba Mươi Tháng Tư, viết thư nói điều gì với lão, mà thấy lão đôi khi bất chợt đăm chiêu, suy tính…
Có lẽ cái điều lão âm thầm mong đợi hơn hai mươi năm đã đến rồi chăng? Mùa xuân 1977, nghĩa là hai năm sau ngày miền Nam giải phóng, nhân cử ấy trong xã có đợt vận động di dân xây dựng vùng kinh tế mới ở Tây Ninh, lão viết đơn xin đi ngay, cùng với ba con trai. Thế là cái cơ ngơi to lớn của ông cha và ba thằng con trai được bán tống bán táng đi chi kịp!
Nhưng chừng được một năm, người ta thấy lão, như một con chó không lông, cùng ba thằng con trai phờ phạc, đưa cả gia đình tan tác trở về quê nhà. Người con gái xinh đẹp xưa kia của ông Cửu Sang đã không trở về. Bà chết vì sốt rét cùng với ba đứa cháu, con của ba người con trai bà.
Người ta đồ rằng lão Điều vỡ mộng. Lão nhận được thư của người anh trai, và tưởng rằng thời cơ đã đến, khi quân Pôn Pốt đánh sang, quân của Phun rô và bọn phản động nước ngoài từ Tây Nguyên đánh xuống, lực lượng trong nước ngóc đầu dậy, đánh tới. Thế là giải quyết xong!..
Và, quả thật, người ta đã giải quyết xong thật. Quân Pôn Pốt bị đánh tan tác đến tận sào huyệt, những toán gián điệp nước ngoài bị nhốt trong vành móng ngựa, và bọn phản động trong nước sợ xanh mặt, im re! Chỉ có lão Điều là dại. Lão ngóc đầu dậy, và bị ba anh con trai của lão túm cổ, trị cho một trận. Giờ thì chúng hiểu được ý đồ của người cha kéo cả gia đình vào đây để làm gì! Và ba anh ngậm ngùi vì mất ba đứa con và một bà mẹ, bỏ mặc ông bố, kéo nhau về quê. Cho nên bây giờ, lão lủi thủi một mình, trong túp lều lợp rạ ở rìa làng, con cháu chẳng đứa nào thèm dòm lại.
Bây giờ, lão Điều đã bảy mươi, hay ngoài bảy mươi? Cô đơn và tiều tụy. Nước da ngã màu khó tả, vừa răn reo tái xám của sốt rừng mang theo, pha lẫn màu vàng bủng của thiếu ăn, vừa khô đét và bóc vảy từng mảng như gốc cây dưới già đầu làng. Đôi mắt kéo màng đục lờ đờ. Bộ râu thưa vài sợi trắng quăn queo. Cái đầu không tóc loang lỗ những vết chàm sẫm, to bằng đồng xu. Người đời thường nói, đói rụng râu sầu rụng tóc, có lẽ là như vậy. Những ống tay ống chân lão chỉ còn da bọc xương, hằn rõ những mắt xương thô lố. Nom lão như một con ma. Đến nỗi, nhác trông thấy bóng, lũ trẻ con đã bỏ chạy mất vía!..
Lão sống được có lẽ nhờ kinh nghiệm trồng dưa. Dưa của lão trồng thành nhiều lứa. Khi xung quanh trái còn xanh, thì lứa dưa sớm của lão đã chín đen bóng trên nương, lão bán được tiền. Khi xung quanh mùa dưa đã vãn, chỉ còn bán dưa nánh, thì lứa dưa tiếp theo của lão vẫn còn lăn lóc cả nương, như những đàn lợn con béo múp. Bấy giờ lão một mình một giá, lại được tiền. Sau lụt tiểu mãn, ngọn dưa bị bết đất, lụi hết. Xung quanh người ta bỏ hoang, sấp ngửa theo việc đồng áng, lão Điều còn kịp làm vụ dưa trễ, dưa non, không để chín, bán cho người ta muối trường, dành ăn trong mùa mưa lũ.
Phân bón dưa lão chuẩn bị quanh năm, rất cẩn thận. Lão nhặt phân trâu bò rơi vãi dọc đường thôn, trên các bãi chăn dắt gia súc, dước gốc những tán cây rợp bóng, nơi bọn trẻ thường buộc trâu bò những trưa nắng. Lão đem về phơi khô, chất đống đốt, lấy tro đem bón. Ơn trời, vùng đất này cát nhẹ, tốt dưa, dễ làm, nên cái sức vóc tàn tạ của lão vẫn còn cữa quậy được. Lão đào những cái hố hình tròn, rộng chừng một mét, sâu hơn gang tay, rồi cho phân tro xuống, trộn kỹ cùng với đất cát. Xong, lão vỗ nhẹ lên mặt đất cho lì, để giữ ẩm. Cuối cùng, lão găm xuống những hạt dưa đã được ngâm nước tro từ hôm trước, theo từng khóm. Mỗi hố như thế ước chừng mươi hạt. Độ dăm ba hôm sau, những cái mầm bé tí đội cát nhô lên, ngơ ngác nhìn bầu trời, và nhìn nụ cười khô héo trên khuôn mặt ràu rĩ lão Điều. Dưa của lão chẳng sâu sia bệnh tật gì, lại sai quả; cứ ngọt lự, rất ăn khách…
Mỗi mùa dưa lão thu cũng khá tiền. Có điều, trăm thứ bà rằn đều nhìn vào đấy. Từ hạt gạo củ khoai, đến hạt muối con mắm. Nhưng thu hút nhiều nhất có lẽ là rượu. Có ngày lão chỉ uống rượu trừ bữa. Chỉ tội cho con vàng, những ngày như thế, cứ ngồi chòm rỏm, chờ mãi mà chẳng thấy chủ ném cho cái chụt khoai nào!
Năm nay lại được dưa. Khách mua kéo về đông lắm. Khách nhà nước, khách tư thương; cứ dập dìu. Họ mua mỗi lần hàng ô tô. Chẳng mấy chốc, đồng dưa đã vãn. Các lều giữ dưa lần lượt được giỡ hết. Chỉ còn trơ lại cái lều giữ dưa của lão Điều, hai mái bằng lá mía ải xám, như cái hầm chữ A trong chiến tranh, và vườn dưa còn lăn lóc quả, da xanh thẫm, bóng loáng dưới nắng hè của lão.
Bây giờ, gần như suốt ngày suốt đêm, lão Điều ở ngoài ruộng dưa. Một ấm nước chè xanh hãm đặc, vàng sóng sánh tựa mật ong. Một đãy khoai lang luộc sẵn, thứ khoai đất cát vỏ màu hồng sen, ruột vàng, thơm và bùi. Và một cái tẩu không biết làm bằng thứ gì, lão giữ được từ hồi còn ở lính, đen bóng vì mồ hôi và xái thuốc. Đôi khi còn có cả cút rượu. Mùa dưa chín, lão sang thế!
Trẻ chăn bò tất nhiên là sợ lão. Nhưng chúng lại thèm những trái dưa. Lũ quạ cũng thế. Cho nên lão phải ngồi chòm rõm trong lều mà trông ra, như con chó trông nhà, không dám nằm. Lão chờ thêm vài hôm nữa cho được giá. Bọn tư thương là mua liều mạng lắm. Chúng sợ nhà nước mua hết đi mà. Chúng mua cao, trả tiền liền, có khi lại còn biếu lão cả rượu nữa!
Để đuổi lũ quạ, lão làm hai con bù nhìn đứng gác hai đầu. Quả thực, hai con bù nhìn cũng rách rưới y hệt lão, khiến cho lũ quạ chỉ lượn quanh. Đôi khi có con nhắm mắt sà xuống, thì rồi phải hốt hoảng bay vụt lên, vì những con bù nhìn bị gió lay, gật gật nghiêng ngả như sẵn sàng chộp lấy chúng.
Lão chỉ lo nhất thằng Duệ, cái thằng trời đánh thánh vật! Hắn chăn bò cho hợp tác xã. Gặp lão là hắn nhe răng cười cợt châm chọc, như thể lão là bạn chăn bò của hắn:
- Này lão Điều, hắn nói, lão thì chỉ còn hai tay bíu trên dương gian, hai chân kia đã chòi chòi dưới âm phủ rồi, làm cho ai ăn? Cho mấy bà bán rượu chắc?
Nói rồi hắn cười hì hì, bế xốc lão Điều lên như bế đứa trẻ con, chưa thôi cợt nhả:
- Cho bọn này quả… Bọn này còn… khiêng lão ra đồi chớ? Hì hì…
Lão Điều cố vùng vẫy để trằn ra khỏi tay thằng Duệ. Lão thừa biết cái âm mưu của hắn; hắn ôm lão đây, là có đứa hái dưa ở đằng kia. Nhưng lão chẳng thể giận hắn được lâu, bởi nó là đứa duy nhất lui tới nhà lão, hỏi thăm lão có đau ốm gì không.
Ban đêm thì ít sợ mất hơn. Từ làng ra đây có hàng cây số, lại trái đường trái nẻo, ai ra làm gì? Nhưng lão vẫn phải canh giữ. Phần vì nằm nhà cũng như nằm đây, lại đỡ đi lại. Phần vì ở đây gần đường quốc lộ, ngộ nhỡ có đứa nào ác, nó ghé ô tô lại thì lão mất nhờ. Cho nên đêm nào lão cũng nằm còng queo trong cái lều này.
Đêm nay rồi trăng sáng phải biết! Hoàng hôn xòe những ngón tay màu hồng từ phía mặt trời lặn vươn về phía biển. Người ta bảo đấy là rồng hút nước, sắp mưa, nhưng lão Điều chẳng tin. Bởi mùa này chiều nào chẳng thế, và gió lào thổi rạc cả cỏ cây. Lão Điều chắp tay sau đít đi một vòng quanh ruộng dưa, bầm bầm điều gì trong miệng, rồi lững thững trở về lều. Con chó vàng đi sau, ngửi hít những dấu chân lão. Giờ này trên đồng dưa đã lắng lại, phía đường cái ô tô cũng thưa dần. Cái nóng và gió Lào cũng dịu đi quá nửa. Lão Điều lôi ấm chè xanh ra chiêu một ngụm, châm đóm vào chiếc tẩu ngậm ở khóe môi, rồi thư thả ngồi xuống cửa lều, ngắm những vì sao đầu tiên nhấp nháy trên bầu trời…
Trăng đã nhô lên mé biển, đỏ như lòng quả dưa chín cắt ngang. Lão chợt thấy yêu đời. Con người gần đất xa trời ấy còn thấy yêu đời mới lạ! Lão chui vào lều, lôi ra cút rượu, rút cái nút bằng lá chuối khô cuộn tròn, quay mặt về phía vừng trăng, như thể trăng là người hầu rượu cùng lão, tu một hơi không biết gì trời đất.
Khi con tim yếu ớt, già nua của lão bỗng đập rõ tiếng, như trẻ lại đôi phần, lão khật khưởng toan chui vào lều, thì cận kề trước mặt, như thể chui từ dưới cát lên, một người con gái. Trong ánh trời nhá nhem và ánh trăng chưa sáng tỏ, cô gái trạc tuổi hăm bảy hăm tám, cái áo màu thẫm không biết xanh hay đem, quần lụa đen xắn lửng ống chân, và đôi quang gánh nhẹ tênh.
- Ông ơi, cô gái nói, cháu ở Lộc Hòa, đi bán dưa ở chợ Hoàn Lão, ế quá, trễ mất xe ông ạ!
Vừa nói, cô gái vừa bỏ đôi quang gánh xuống và ngồi xệp trên đất cát, hai tay vuốt xỏa ống quần, vẻ mệt mỏi của người đi bộ xa. Chuyến xe đò cuối cùng chạy vào lúc bốn giờ rưởi chiều, xe đâu còn bây giờ!
- Qua Ba Dốc giữa đêm một mình, cháu sợ lắm. Ông cho cháu…nghỉ tạm đây, mai cháu về sớm…
Lão Điều rờ rẫm chui vào lều, chẳng nói chẳng rằng, bươi cát giúi chai rượu xuống cho vững, rồi khẽ nằm xuống trên nền cát trải rạ làm chiếu. Lão biết nói gì? Đuổi người ta cũng chẳng được. Con gái đi đêm đi hôm một mình, qua cái Ba Dốc quạnh vắng mà người ta đồn là nhiều kẻ cướp, làm sao được! Còn cho người ta nghỉ thì…chậc, lão có gì mà cho? Cái lều bằng nắm tay, lão cũng còn nằm trên đất. May mà gió to, gió Lào khô rang, khiến lũ muỗi cũng xiêu bạt đi đâu.
Lão Điều nghiêng người, đẩy ấm nước chè xanh ra cửa lều. Cô gái hiểu ý là ông mời nước, nhích đễn xách ấm nước lên. Nhìn quanh, biết là không có bát, cô gái ngửa cổ uống ực mấy hớp, rồi cất ấm vào chân lều, ngồi nắn bóp lòng bàn chân tê mỏi của mình.
Đầu óc lão Điều cũng thoáng có những câu hỏi nghi ngờ về cô gái, nhưng hết thảy đều bị loại bỏ. Gái làm tiền chăng? Thì ai chọn lão già không tiền! (Của đáng tội, đợt dưa sớm lão cũng bán được mươi nghìn, giờ còn chút đỉnh lão nhét trong ngực áo). Kẻ lưu manh ư? Thì lão có gì mà lừa lọc! Hay kẻ trộm? Sức ấy thì gánh được mấy quả? Giỏi lắm thì được bảy tám quả, trong khi vườn lão có đến hàng trăm!
Men rượu chẳng mấy chốc đã làm mềm muội các khớp xương và những ý nghĩ của lão. Lão ngáy khò khò, thở ra bằng mồm phập phù của người không còn răng…
Không biết lúc ấy là mấy giờ, chắc khuya lắm. Có lẽ các phân tử rượu đã bốc hơi hết trong mạch máu lão Điều, nó thừa ra thứ nước không phải rượu, cần được tống đi. Lão trở mình ngồi nhổm dậy. Trăng sáng quá. Sáng như ban ngày. Đến nỗi, đôi mắt mờ đục của lão cũng nhận ra được những vỏ dưa lấp lánh ở ngoài vườn dưa.
Lão khom lưng, định chui ra khỏi lều, nhưng chân vấp ngay một vật gì mềm mềm, lão giật mình nhìn xuống, nhận ra người con gái ngủ nhờ.
Lão đi vòng quanh ruộng dưa một lượt, sau khi làm xong cái việc mà thần kinh đánh thức lão dậy. Gió biển đưa lên mát lạnh, khiến lão tỉnh hẳn. Bốn bề mênh mông, vắng lặng. Hai con bù nhìn như hai con người chết rũ ở hai đầu ruộng dưa. Con chó vàng đi sau lão cũng ể oải, ngáp dài…
Lão Điều chui vào lều. Thật bất ngờ, người con gái ngủ nhờ đã xích vào nằm trong lều, đôi chân sóng soài ngáng đường vô của lão, còn vẻ mê mệt giấc say, khiến lão không dám bước chân qua. Ở thôn quê, người ta kỵ bước chân qua người khác, nhất là người ấy chưa chồng chưa vợ. Mà cô này hẳn là chưa chông. Lại nữa, khi bước chân qua, ngộ nhỡ cô gái thức giấc, giật mình co chân lại, chẳng làm lão ngã nhào thì sao? Mà ngã vào cái tuổi này, thì khó dậy được lắm!
Lão Điều cúi xuống, định bụng nhấc đôi chân cô gái lên, đặt xuôi ra để lấy lối đi. Nhưng đôi chân mát rượi, trắng nhễ nhại dưới ánh trăng, chẳng rụt lại mà giơ lên, gác vào đầu gối lão. Đôi ống quần lụa mỏng tự dưng chảy vào, lồ lộ cả bộ đùi nõn nà khêu gợi. Lão Điều vội gạt đôi chân ấy xuống đất, định bước qua, nhưng nó lại vẫn gác lên gối lão như cũ. Lần này bàn tay lão không gạt nỗi nó nữa. Ngược lại, từ đôi chân trắng như nặn bằng sáp ấy, lại có một luồng điện truyền qua tay lão, khiến lão tê dại, bần thần ngồi xuống cạnh cô gái...
Có một mùi thơm, lâu ngày không gặp nên lão không rõ là mùi gì, nhẹ và thoảng. Thôi đúng rồi, mùi phấn và nước hoa tỏa ra từ da thịt con gái. Ngày xưa ở lính, lão lạ gì cái mùi này, nó ngào ngạt ở các cô gái làng chơi. Chỉ thoáng thấy bóng gã trung sĩ nhất này, là chúng ưỡn ẹo: “Thầy đội ơi...đêm nay em là của thầy...Thầy là ông hoàng đêm nay trên thân thể em...” Và đêm nào cũng thế, rượu sâm banh và gái đẹp ngập lút đời trai lão...
Bây giờ có một ả như vậy ở đây? Không! Không thể nào! Bởi trông nó hiền khô thế kia? Ồ!...Mà sao nom giống con Lương nhà lão quá. Lão cúi xuống gần mặt cô gái. Lương đấy hả con? Tội nghiệp con bé, nó làm y tá thôn, gan lỳ không ai bằng. Ở đâu có bom nổ, có nhà cháy, có hầm sập, là ở đấy có nó. Hai bím tóc ngắn cộc lúc ẩn lúc hiện trong khói bom. Ai cũng khen con bé được người được nết đáo để. Nó là con gái út của lão, mới mười bảy tuổi chơ mấy!
Nhưng nó chết rồi. Người ta nói bom đạn Mỹ chừa nó, thế mà không đúng. Nó vẫn chết vì bom Mỹ. Cánh đồng làng đã trở thành đại hạn, khi đập nước Đá Mài bị trúng bom. Người ta phải dùng cuốc tay, cùng phụ thêm với trâu bò cày kéo, gấp rút chuẩn bị đất gieo vãi cho kịp vụ mùa. Và nhát cuốc của nó đã cuốc phải một quả bom bi...
Đúng. Con Lương nhà lão đã chết. Mộ nó đặt trong nghĩa trang của xã ở xa kia.
Vậy thì đây... không lẽ ...
Mà nó là gì đi nữa, thì có ảnh hưởng gì đến lão? Lão chẳng mất mát gì. Chắc chắn thế. Ngược lại, lão được nữa là khác! Mấy ai được chút may mắn này ở tuổi lão? Họa chỉ có vua chúa đời xưa. Đích thị là của trời cho. Mà của trời cho thì phải hưởng. Đời lão còn gì nữa đâu ngoài cái tuổi bảy mươi gần đất xa trời, cô đơn và tàn lụi? Chẳng còn gì nữa sất! Vậy thì, cái này ắt là một vật báu trời cho không dễ gì có được. Lão đưa mắt nhìn quanh bốn phía, chẳng có ai ngoài con chó chồm chỗm trước lều, và hai con bù nhìn gật gật như tán đồng với ý nghĩ của lão. Tay lão bắt đầu rờ rẫm, sờ soạng trên thân thể người con gái. Ánh trăng sáng tỏ, đọng vũng trước cửa lều, phả lên làn da trắng ngà một màu linh ảo. Người con gái không phản đối gì, thậm chí cô ả còn ưỡn ngực, như dâng hiến, khiến lão một giây chột dạ. Hay là ma quỷ? Nếu có ma quỷ thật, thì ắt lão đã làm mồi cho ma quỷ từ lâu rồi, bởi lão từng giết bao nhiêu mạng người! Vậy thì có lẽ đây là trong mơ?
Lão Điều dừng tay lại, véo vào cái đùi bọc da nhùng nhằng của mình. Chưa đáng tin, lão nắm vài sợi râu ở cằm giật mạnh. Lão nhăn mặt, đau đến chảy nước mắt. Không! Không phải mơ, thật hẳn hoi. Đích thị là của trời cho. Ý nghĩ này lặp đi lặp lại trong óc, khiến lão bình tâm. Lão chỉ tiếc là tuổi đã già, không còn sức để mà tận hưởng của trời nữa. Lão bỗng nhớ cút rượu chôn ở chân lều, liền với tay ngửa cổ dốc cạn. Rồi gật gù, đích thị là của trời cho.
Nhưng trời chẳng cho ai đến hai lần đâu. Vậy nên phải hưởng. Chết cũng cam lòng! Mà lão chết cũng phải rồi, sống chẳng ích gì cho ai, con cái nó hắt hủi, nó bỏ rơi...
Thực ra, chúng nó bỏ rơi cho lão là may đấy, nếu không chúng giết lão lâu rồi. Khi bên kia chân đồi súng nổ sát sạt, quân Pôn Pốt ào ạt tràn tới gần, ngoảnh lại chúng thấy cha chúng từ bao giờ lôi ra bộ đồ lính thời Pháp cũ nát có gắn mề đay, bấy lâu cất kỹ ở đâu, bây giờ mang vào và ngồi xếp bằng tròn, chễm chệ rung đùi trong tư thế nghênh tiếp. Đôi mắt vằn những tia máu lóe lên cái nhìn khó hiểu, miệng lẩm bẩm một thứ tiếng bồi thì thào: “Bờ ra vô!...Bờ ra vô!...” Tất nhiên ba thằng con trai lão tóm lão, lột trần, ném bộ quần áo lính có gắn mề đay vào bếp, cho cái hy vọng cuối cùng của lão thành mây khói...
Với ý nghĩ chết bây giờ cũng đành lòng, lão Điều, gã lính về già, quyết định tận hưởng cái “của trời cho” ấy một cách từ từ, nhấm nháp như thể uống trà ngon. Nhưng lại lập cập với cái sức tàn tạ đói rét và thiếu ăn của tuổi bảy mươi vừa được tí men rượu khuấy lên. Con chó vàng chồm hổm trước lều, trố mắt không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ngoài kia, hai con bù nhìn tuồng như khẽ giật mình, ngơ ngác...
Nhưng lão Điều đã không chết ngay như lão tưởng. Chứng cớ là, khi mặt trời lên, nắng xói thẳng vào mặt vào gáy, đôi tròng mắt lờ đờ ám mây của lão nhập nhèm mở ra. Rồi tiếp đến là các ống tay ống chân răn reo bắt đầu khẽ nhúc nhắc cử động. Cuối cùng thì lão cũng ngồi dậy được. Vật đầu tiên đánh thức bộ não già và mệt mỏi của lão, là mớ giẻ rách xỉn màu nằm trên cát, ngay trước mặt. Lão cầm lên và nhận ra đó là cái quần của mình. Cho đến khi đôi mắt lờ đờ như người sắp chết của lão bắt gặp nửa người trần truồng gớm ghiếc của mình, thì lão nhớ ra tất cả.
Không biết có một sức mạnh nào đã dựng lão dậy khi đôi mắt ngỡ không còn sinh khí ấy nhìn thấy vườn dưa trống trơ, không còn một quả. Thần hồn nát thần tính, lão cắm cổ, lúp xúp chạy tắt qua vườn dưa, định về nhà. Nhưng chân vấp phải một vật gì tròn tròn, trơn tuột, khiến lão ngã té giụi, sấp mặt trên cát. Lão lômg cồm bò dậy, và nhận ra đấy là trái dưa. Không, vườn dưa của lão vẫn còn đây, tất cả lăn lóc như đàn lợn con béo múp, nguyên vẹn. Lúc nãy có lẽ do hoảng hốt, và do nắng lóa, lão không nhận ra. Nhưng lạ chưa, chúng cứ như một mớ xương đầu lâu, giương những mốc mắt hốc mũi hốc miệng sâu hoắm đen ngòm nhìn lão gườm gườm đến kinh hãi. Thêm nữa, hình ảnh người con gái hồi đêm cứ chập chờn, khi mờ khi tỏ, mà khi tỏ lão lại nhận ra đúng là con gái lão, khiến lão lợm giọng muốn ói lên ở cổ. Lập tức lão vùng chạy, té sấp té ngửa, có khi phải bò lổm ngổm, hớt hải ra khỏi vườn dưa. Hai con bù nhìn đón đường gật gật, nghiêng ngửa, như ôm bụng rủ rượi cười giễu lão. Có thực đêm qua có một người con gái đã đến với lão? Hay đó là những bóng ma, những oan hồn hiện về trả đũa lão? Hoặc đó là chút trăng hoa cuối cùng sót lại trong người, đã thôi miên, huyễn hoặc lão?
Lão chạy, đúng hơn là lão lủi, dọc theo bờ phi lao cằn cỗi, mắt dớn dác trông chừng bốn phía, như sợ ai nhìn thấy. Theo sau, con chó vàng, còm cõi và xơ xác, y hệt lão, cũng lò dò bước.
Lão lính già dâm đãng, bây giờ vừa hổ thẹn, vừa khiếp nhược, và vừa đói khát, nằm rũ như tàu lá chuối khô trên cái chõng tre ọp ẹp trong nhà mình. Thằng Duệ đi vào, tay xách cái ấm nhôm lão Điều quên lại ngoài lều, cất tiếng kêu từ ngoài sân:
- Ê, lão Điều! Làm gì mà chạy như ma đuổi thế, bỏ quên cả ấm đây này!
Hắn bỏ cái ấm vào xó bếp lạnh lẽo, rồi quay đến khom người, cù vào người lão Điều:
- Ơ, lão ốm đấy à?
Lão Điều không nói gì, chỉ chậm chạp hấp háy đôi mắt lờ đờ. Thằng Duệ hiểu là lão nói “Phải!”
Mươi hôm sau lão Điều chết. Người ta không hiểu lão chết vì bệnh gì!..
Đồng Hới, 2/1988
H.P
SH số tháng 3 - 1988