Ở phía tây nam Kinh thành Huế, thuộc bờ nam sông Hương, có một dãy núi uốn lượn như mình rồng mang tên Long Sơn. Vùng long mạch này từ cuối thế kỷ 17 đã phát tích dòng thiền Việt do tổ Liễu Quán khai sáng.
Thâm nghiêm tháp tổ
Từ ngã ba đường Tự Đức -Thủy Dương thẳng lên khoảng 2 km là đến núi Thiên Thai, nơi có tổ đình Thiền Tôn và tháp tổ ngài Liễu Quán nằm ở ấp Ngũ Tây (xưa thuộc xã An Cựu, H.Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, nay thuộc P.An Tây, TP.Huế).
Ở Huế, ngoài lăng mộ của các bậc vua, chúa triều Nguyễn, hiếm thấy có khu lăng mộ nào được xây dựng với quy mô, kiến trúc đẹp và đầy đủ các yếu tố phong thủy như vậy. Tháp tổ được xây dựng vào tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), sau đó được tái thiết vào năm Gia Long thứ 14 (1815) và được trùng tu, xây dựng thêm la thành cùng các hạng mục khác qua các thời kỳ về sau.
Ngôi tháp tựa lưng vào núi, được bao bọc bởi tường thành cổ kính, phía trước là cổng tam quan với trụ biểu, câu đối. Bên trong khuôn viên của cụm công trình bảo tháp, ngay minh đường là một hồ bán nguyệt trồng sen, súng. Đường đi lên bảo tháp có nhiều bậc tam cấp rêu phong. Ngay chân tháp cổ là tấm bia đá, dòng lạc khoản ghi Sắc tứ Chánh Giác Viên Ngộ Liễu công Lão Hòa thượng chi tháp (Tháp của Lão Hòa thượng Liễu công, thụy hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ). Văn bia ghi rõ hành trạng và tiểu sử của tổ Liễu Quán. Mặt trong la thành phía bên trái là một nhà bia, ghi: Khai Hoàng, Hậu Thổ, Nguyên Quân từ tọa chi vị (Bài vị thờ các vị Thành Hoàng khai canh khai khẩn, Thổ địa và tổ tiên các đời trước).
Chuyện trong khuôn viên tháp cổ của vị thiền sư có nhà bia thờ Thành Hoàng, Thổ địa này có lẽ liên quan đến một giai thoại về thiền sư Liễu Quán. Giai thoại kể rằng, sau khi lĩnh ngộ tâm ấn đạt đạo từ Tử Dung hòa thượng, vào năm 1708 thiền sư Liễu Quán đi vào chân núi Thiên Thai để ẩn danh, tham thiền. Ban đầu, ngài đến tá túc trong một ngôi miếu cổ thờ Thần Hoàng xóm Ngũ Tây, cách chùa Thuyền Tôn bây giờ độ vài cây số. Đêm hôm đó, các bô lão trong làng thấy vị Thần Thành Hoàng về báo mộng nói rằng kiếm chỗ khác để xây miếu cho ta vì miếu cũ ta đã nhường cho một vị Bồ Tát đắc đạo tu hành. Hôm sau, tờ mờ sáng, các vị bô lão trong làng đến ngôi miếu Thành Hoàng thì thấy đã có vị sư đang ngồi tham thiền. Từ đó họ đã đi làm ngôi miếu khác nhường chỗ cho vị sư tu hành.
Phát tích dòng thiền Việt
Hòa thượng Thích Thiện Siêu viết trong sách Lịch sử Phật giáo và nhân vật Phật giáo: thiền sư Liễu Quán quê ở làng Bạch Mã, H.Đồng Xuân, phủ Phú Yên. Ngài họ Lê, pháp danh Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán. Tu học từ thuở nhỏ, ngài tỏ ra thông minh khí tiết hơn các bạn đồng học. Mất mẹ năm lên sáu, theo ý nguyện của ngài, thân phụ ngài đã gửi đến chùa Hội Tôn thụ giáo với Tế Viên hòa thượng. Bảy năm sau Tế Viên hòa thượng tịch, ngài ra Huế vào chùa Hàm Long (tức chùa Bảo Quốc ngày nay) thụ học với Giác Phong lão tổ. Năm Tân Mùi (1691), sau khi xuống tóc được một năm, ngài được gọi về làng cũ để giúp đỡ phụ thân trong lúc già yếu. Nhà nghèo ngài phải đi hái củi bán lấy tiền lo thuốc thang. Bốn năm sau phụ thân qua đời, ngài lại trở ra Huế chính thức thụ giới Sa-di với Thạch Liêm Đại Sán hòa thượng. Năm Đinh Sửu (1697) ngài tiếp tục thụ giới với Từ Lâm lão hòa thượng. Năm Kỷ Mão (1699), ngài đi khắp Tòng Lâm thăm viếng nhiều chùa để học hỏi đạo lý và quyết định hiến thân cho đời sống đạo, chẳng quản đạm bạc gian lao.
Năm Nhâm Ngọ (1702) ngài đến Long Sơn đầu sư với Tử Dung hòa thượng (người sáng lập Ấn Tôn Từ Đàm hiện nay), một vị hòa thượng có tiếng thông thái khéo dạy người niệm Phật tham thiền đương thời. Trước khi chấp nhận ngài làm học trò, hòa thượng Tử Dung đã thử nhiều lần và bắt ngài giải đáp công án: “Muôn pháp quy về một, một về đâu?”. Ngài đã tìm kiếm 8, 9 năm không ra câu giải đáp và đã thất vọng.
Một hôm nhân đọc Truyền Đăng Lục, ngài gặp câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ” (Chỉ vật truyền tâm, chỗ mà người ngoại cuộc không hiểu được), bỗng nhiên ngài thấy đã tìm ra câu giải đáp mà thầy mình đặt ra, nhưng vì đường sá xa xôi cách trở, không thể đến trình chỗ ngộ với thầy ngay được.
Năm Mậu Tý (1708) ngài đến Long Sơn (Huế) để đệ trình kết quả công án với Tử Dung hòa thượng. Sau nhiều vấn đáp, đến khi ngài đọc hai câu: “Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi”, hòa thượng mới tán thán.
Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742), ngài lại dự lễ giới đàn ở chùa Viên Thông. Cuối mùa thu năm ấy, ngài có chút bệnh, gọi môn đồ đến dạy rằng: “Nhân duyên ta đã hết, ta sắp đi đây”. Môn đồ kêu khóc ầm lên. Ngài lại bảo: “Các ngươi kêu khóc mà làm gì? Chư Phật ra đời còn nhập Niết bàn; nay ta đi lại rõ ràng, về ắt có chỗ, các ngươi không nên khóc lóc và đừng buồn thảm lắm”. Cuối tháng hai năm Quý Hợi (1743), trước mấy ngày tịch, ngài còn ngồi dậy vững vàng, tự cầm bút viết bài kệ từ biệt.
Cùng với vương triều nhà Nguyễn đóng đô ở phía bắc sông Hương, ở phía nam sông Hương lại có dòng thiền Lâm Tế, phát xuất từ thiền sư Liễu Quán với pháp kệ truyền thừa phát triển thiền môn. Hai dòng chảy song hành này đã làm nên vận mệnh văn hóa đặc thù của xứ Huế.
Nguồn: Bùi Ngọc Long - TN