Ai ra xứ Huế
Tìm lại phủ Hoài Ân Vương ở phố Gia Hội
15:01 | 04/09/2025

TRẦN VĂN DŨNG

Dưới triều Nguyễn, phố Gia Hội được xem là vùng đất lý tưởng cho việc an cư lập nghiệp, nơi tập trung nhiều phủ đệ của các ông hoàng, bà chúa quyền quý và cao sang. Trong đó phải kể đến phủ của đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm, còn gọi là lầu Ông Hoàng Mười là một minh chứng tiêu biểu.

Tìm lại phủ Hoài Ân Vương ở phố Gia Hội
Chân dung đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm (1884 - 1940)

Ông hoàng Bửu Liêm được đào tạo bài bản về Nho học lẫn Tây học, và từng được triều đình giao phó thay mặt nhà vua chủ trì nhiều nghi lễ quan trọng của hoàng gia. Trải qua thời gian và biến động của thời cuộc, Trường THPT Gia Hội1 được xây dựng trên nền móng của phủ Hoài Ân Vương xưa. Việc tìm về dấu tích của phủ Hoài Ân Vương không chỉ là hành trình trở về với lịch sử, mà còn là cơ hội để chúng ta hoài niệm về một thời kỳ vàng son của mảnh đất Cố đô Huế.

1. Vị hoàng tử thông thái giữa hai nền tri thức Đông - Tây

Hoàng tử Bửu Liêm 寶嵰 2 sinh năm 1884, là con trai thứ 10 của vua Dục Đức (nên thường được gọi là ông Hoàng Mười), mẹ là bà Triêm phi Võ Văn Thị Đông3. Khi vua Dục Đức bị phế truất, các hoàng tử phải theo mẹ về quê sinh sống như một thường dân. Đến khi hoàng tử Bửu Lân (con trai thứ 7 của vua Dục Đức) lên ngôi vua (1889), lấy niên hiệu Thành Thái thì mới cho đón mẹ là bà Phan Thị Điều và các hoàng đệ vào cung.

Xuất thân từ dòng dõi hoàng tộc nên ngay từ khi còn nhỏ, ông hoàng Bửu Liêm đã nhận được nền giáo dục cao cấp nhất. Ngoài việc học các sách kinh điển của Nho giáo như Tứ thư, Ngũ kinh, vua Thành Thái còn sai Thượng thư Bộ Lễ Ngô Đình Khả hàng ngày tới phủ đệ để giảng dạy ông và hoàng thân Bửu Toản tiếng Pháp4. Năm 1904, khi vừa đủ tuổi trưởng thành, hoàng thân Bửu Liêm được vua Thành Thái phong tước vị Hưng Nhân Quốc công 興仁國公. Kể từ đó, ông bắt đầu tham dự vào các sự kiện và nghi lễ quan trọng của hoàng gia. Năm 1906, vua Thành Thái ngự giá Bắc tuần yết bái Nguyên miếu (miếu thờ Triệu Tổ Nguyễn Kim) ở Thanh Hóa, Quốc công Bửu Liêm và Tuyên Hóa Công Bửu Toản đều được triều đình sung làm Hộ giá thân thần5.

Năm 1907, vua Thành Thái thoái vị, triều đình Huế đưa hoàng tử Vĩnh San lên ngôi, lấy niên hiệu là Duy Tân lúc mới được 7 tuổi. Đến năm 1909, triều đình tổ chức nghi lễ tế đàn Nam Giao, vua Duy Tân sai Hưng Nhân Quốc công Bửu Liêm thay mặt làm lễ6. Đây là nghi lễ quan trọng hàng đầu dưới triều Nguyễn, được xếp vào hàng Đại tự, được tổ chức long trọng dịp đầu xuân. Sự kiện này được ghi chép trên bản phụng dụ vào ngày 18 tháng 2 năm Duy Tân thứ 3 [1909] của Nội các: “Phái Hưng Nhân Quốc công Bửu Liêm cung kính làm lễ tế Nam Giao thay Hoàng đế, do Hoàng đế còn nhỏ tuổi không kham nổi nhiều nghi tiết thăng giáng tiến chỉ”7. Cũng trong năm này, ông được Nam triều và chính phủ Bảo hộ cử sang Tây du học8. Sau khi tốt nghiệp bằng Kỹ sư ngành Canh nông tại Pháp, về nước, ông được bổ nhiệm chức vụ Chánh tòa Canh nông ở Huế. Trong giai đoạn này, Quốc công Bửu Liêm đã đẩy mạnh phát triển kinh tế nông nghiệp, đồng thời vận động các địa phương và nhân dân khai hoang trồng trọt.

Sau một lần tiếp kiến ông hoàng Bửu Liêm, Hàn Lâm viện Cung phụng Hồ Văn Lang đã có lời nhận xét như sau: “Hồi ngài còn là thanh niên, ngài đã qua Pháp du học, đậu tới chức Bác vật canh nông, chăm nghiên cứu về nghề dạy dân làm ruộng, vì ngài nghĩ rằng nước ta muốn được phú cường, dân ta không thể không chăm về nghề nông được. Khi ngài về nước, Chánh phủ Bảo hộ liền tặng cho ngài chức Chánh tòa Canh nông tại Huế. Ngài lại mở thêm một đồn điền lớn, thuộc về hạt Quảng Trị để cho dân nghèo xứ ấy có nơi nương dựa làm ăn. Sở ngài một ngày một đông, nhân dân hạt đó ai cũng lấy làm mến phục. Hiện nay ngài đã tìm được một cái mỏ than, ý ngài định khai phá để lấy than bán cho người ngoại quốc, và có thêm nhiều công việc làm cho dân nghèo hạt ấy tiện bề sinh nhai. Tôi cũng mong cho mỏ than ấy mau thành công thì chẳng là một sự hạnh phúc cho dân nghèo hạt ấy lắm? Ngài nói ngài thương dân Trung kỳ là một nơi trên thì núi dưới thì biển, ruộng đất không đủ sinh nhai, chớ ngài đã là một vị ông Hoàng, lương bổng thiếu chi mà ngài lại còn lo lắng mở mang canh nông như vậy, xem tấm lòng bác ái, chí kinh doanh của ngài so sánh với các ông Hoàng bên Âu - Mỹ cũng chẳng kém gì”9. Sau này, với những đóng góp lớn vào việc phát triển nông nghiệp, ông hoàng Bửu Liêm đã được triều đình ban thưởng Minh Nông Bội tinh hạng nhất10.

Năm 1912, vua Duy Tân gia phong cho hoàng thân Bửu Liêm làm Hưng Nhân Công 興仁公 11. Dưới thời vua Khải Định, không hiểu vì lý do gì mà ông hoàng Bửu Liêm ẩu đả với Ngự tiền Thông sự Thái Văn Toản12, bị nhà vua trách phạt giáng tước xuống làm Hưng Nhân Quận công, mãi đến năm 1919 mới được đặc ân khôi phục nguyên tước Công, nhưng phải đổi tên tước hiệu thành Hoài Ân Công13 懷恩公 (vì trùng với tên Nhân đỉnh 仁鼎 ở Thế miếu) nhân tiết Thánh thọ Ngũ tuần (mừng thọ 50 tuổi) của đức Thánh cung Nguyễn Hữu Thị Nhàn14. Đến năm 1922, triều đình cử Hoài Ân Công Bửu Liêm, Tuyên Hóa Công Bửu Toản cùng với 6 vị tôn tước đi tiễn ngự giá vào Tourane (Đà Nẵng)15 nhân dịp vua Khải Định có chuyến công du nước Pháp (Ngự giá như Tây) dự hội chợ Thuộc địa tại thành phố Marseille.

Năm 1933, với những đóng góp lớn lao cho triều đình và hoàng tộc nhà Nguyễn, hoàng thân Bửu Liêm đã được vua Bảo Đại tấn phong tước Hoài Ân Quận vương 懷恩郡王. Phóng viên Hà Thành ngọ báo cho biết thêm rằng: “Đức ông Hoài Ân Công Bửu Liêm là một vị hoàng thân có danh tiếng trong hoàng tộc. Sau khi đi du học ở Pháp về, ngài đã hết lòng phò tá xã tắc triều Nguyễn. Đối với công lao ấy, Hoàng thượng đã ban sắc ngày 18 tháng 2 phong đức ông Hoài Ân Công lên tước Quận vương”16.

Lễ tấn phong tước Quận vương cho đức ông Bửu Liêm được triều đình cử hành trọng thể theo các nghi thức truyền thống vào ngày 12 tháng 7 năm 1933, với sự tham dự của rất nhiều quan viên cấp cao trong triều cũng như viên chức người Pháp. Buổi lễ này đã được tường thuật chi tiết trên Hà Thành ngọ báo số 1761 như sau: “Lễ Nam Giao vừa xong thì Hoàng thượng ban sắc phong tước Quận vương cho Hoài Ân công. Ngày 12 Juillet, lễ tấn phong ấy đã khai diễn tại quý phủ của đức ông Hoài Ân một cách cực kỳ long trọng. Sáng sớm hôm đó, quan Đại nội Nghi lễ đại thần Bửu Thạch, sau khi thụ ý chỉ của Lưỡng tôn cung Hoàng thái hậu [tức bà Thánh Cung và bà Tiên Cung - vợ vua Đồng Khánh) và ngài Từ Cung Hoàng thái hậu (vì đức Kim thượng [vua Bảo Đại] vắng mặt) bèn lĩnh mao tiết và chức Khâm mạng đi làm lễ tấn phong. Lễ phong này lớn lắm, nên khi quan Nghi lễ Đại thần ra khỏi Đại Nội, thì có hai quan ở Bộ Lễ, một đội lính Cảnh tất ăn bận y phục hoàng cung ra hầu, có đủ tinh kỳ phương tán, bửu trượng, ngân kiếm và một ban bát âm Đại Nội đi theo long đình trong để các bảo vật tấn phong.

9 giờ, tiếng nhạc thiều nổi báo hiệu binh nhà vua tới vương phủ. Đức ông Hoài Ân, mình mặc cẩm bào đỏ, đầu đội mũ thất long, lưng đeo kim đai, thân hành ra ngoài cửa nghênh thánh giá. Khi cờ mao tiết và quan Khâm mạng Bửu Thạch đi ngang qua, đức Hoài Ân Công phủ phục làm lễ vâng mạng.

Long đình tới sân giữa thì có các hoàng thích của Đức ông ăn bận đại lễ ra đón. Hai quan Bộ Lễ bèn mở long đình đem các bảo vật tấn phong để trên bàn trước hương án bày sẵn nơi cần chánh trong vương phủ. Dưới ánh sáng hai cây đèn sáp vàng to tướng chói lọi trên một cái bàn sơn son thếp vàng, có đặt một cái hộp vuông và một cái hộp dài, xung quanh đều phủ gấm vàng, thêu rồng. Ban âm nhạc khởi khúc thiều, đức ông Hoài Ân vào bình thân, rồi quỳ trước hương án. Quan Khâm mạng mở hộp vuông lấy một quyển sách bằng gấm vàng thêu rồng, gọi là thể sách rồi tuyên… Sắc vừa tuyên xong thì nhạc nổi khúc khác, đức ông Hoài Ân bèn lạy tạ lĩnh sắc. Kế hai quan Bộ Lễ mở hộp vuông lấy ra một cái ấn bạc vuông hai mươi phân tây giao cho quan Khâm mạng. Ngài bèn đưa cao lên rồi ung dung đọc mấy chữ khắc trên ấy: Hoài Ân Quận vương chi ấn và trao lại cho đức ông lĩnh và lạy tạ một lần nữa. Bát âm nổi khúc cuối cùng, thế là lễ tấn phong xong.

Sau lễ này thì quan Khâm sứ Trung kỳ, có các quan trong văn phòng ngài và các quan cố vấn theo hầu, cùng quan Chánh Sở Liêm phóng Trung kỳ Sogny tới chúc mừng đức ông Hoài Ân Quận vương. Kế quan Cần chánh và các quan Thượng thư Nam triều đều tới làm lễ mừng. Rồi ai nấy đều nâng các cốc rượu mừng vị hoàng thân trẻ tuổi mà đã lên tới bậc tối cao trong ngũ tước”17.

Có thể thấy rằng, những thông tin được đăng tải trên các trang Hà Thành ngọ báo là nguồn tư liệu rất đáng tin cậy, góp phần xác nhận về thời gian tổ chức, tuần tự các nghi thức tấn phong, qua đó cho thấy sự quan tâm của đông đảo người dân ở chốn đế đô cũng như cả nước.

Với tước vị Quận vương có thân phận và địa vị cao quý, đức ông Bửu Liêm được nhà vua giao phó chủ trì nhiều nghi lễ quan trọng bậc nhất do triều đình nhà Nguyễn đứng ra cử hành. Đặc biệt, trong lễ đại hôn của vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương tổ chức vào tháng 3/1934, đức ông Hoài Ân Quận vương Bửu Liêm và bà chánh thất Hoài Ân Quận vương phi Lý Thị Thuận được triều đình cử thay mặt nhà trai, đi cùng với quan Đại Nội Nghi lễ Đại thần Bửu Thạch và Hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn lên đèo Hải Vân để đón hoàng hậu Nam Phương về lầu Công quán (thuộc Kinh thành Huế), chuẩn bị làm lễ Tấn cung.

Tờ nhật báo tiếng Pháp La Patrie Annamite đăng bản tin về đức ông Bửu Liêm từ trần. Nguồn: BnF.


Năm Bảo Đại thứ 15 [1940], đức ông Hoài Ân Quận vương Bửu Liêm qua đời tại tòa phủ đệ của mình. Vua Bảo Đại được tin ông mất vô cùng thương tiếc, truy phong tước Hoài Ân Vương 懷恩王. Tờ nhật báo tiếng Pháp La Patrie Annamite (Tổ quốc người An Nam) đã đăng bản tin như sau: “Đức ông Bửu Liêm qua đời tại Huế vào ngày 5 tháng 8, hưởng thọ 57 tuổi. Con trai của vua Dục Đức, người quá cố là anh em họ của vua Khải Định và là một trong những người họ hàng gần nhất của đức vua Bảo Đại. Với tư cách là hoàng tử huyết thống, ông đại diện cho hoàng gia trong các nghi lễ triều đình và được giao nhiệm vụ chủ trì một số lễ hội, nghi lễ thay mặt cho quốc vương, đặc biệt là trong thời gian đức vua Bảo Đại lưu trú tại Pháp. Tính tình dễ mến và giản dị của đức ông được nhiều người biết đến và đã giành được sự đồng cảm chung tại triều đình, trong giới quan chức Pháp và người An Nam từ Huế. Hoàng tử Bửu Liêm từng được nhận Bắc Đẩu Bội tinh, Đại Nam Long tinh. Sáng nay, ngài Toàn quyền tại An Nam với các viên chức của mình vây quanh, đã đến nhà tang lễ để gởi lời chia buồn của Toàn quyền Đông Dương và Chính quyền Bảo hộ tới gia đình người đã khuất. Ngày tổ chức tang lễ được ấn định là ngày 22 tháng 8 năm 1940. Chúng tôi vô cùng xúc động trước ký ức của người quá cố lỗi lạc và xin gửi tới gia quyến cũng như toàn thể hoàng gia lời chia buồn chân thành nhất cùng lời cảm thông sâu sắc và trân trọng nhất”18.

Đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm cưới các bà gồm: Nguyên phối Hoài Ân Vương phi Lý Thị Thuận (không có con), bà thứ phối Trần Thị Tín19 sinh 2 con trai và 4 con gái. Trong đó trưởng nữ là Công nữ Kiều Xuân (có chồng là kiến trúc sư Hoàng Hùng), Công tử Vĩnh Giao (1913 - 1982) được vua Bảo Đại tập phong tước Quận công vào năm 193620, về sau được triều đình bổ chức Phụng hộ Phó sứ, và Công tử Vĩnh Xương (1935 - 2023).

Sinh thời, đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm và bà nguyên phối Hoài Ân Vương phi Lý Thị Thuận rất mến mộ đạo Phật. Vì vậy, hai ông bà đã phát tâm cúng dường nhiều tiền bạc để trùng tu, tôn tạo nhiều chùa chiền ở Huế. Hiện phía sau hậu điện chùa Phước Điền21 vẫn còn thờ phụng di ảnh của hai ông bà Hoài Ân Vương hay tại gian giữ nhà tăng chùa Quang Đức treo bức hoành phi đề chữ “Hoài Đức Duy Ninh 懷德惟寜” (Giữ gìn đức hạnh thì mới có được sự yên bình), dòng lạc khoản đề: “Bảo Đại thập ngũ niên hạ, Hoài Ân Vương phụng cúng 保大十五年夏, 懷恩王奉供” ([Phủ - Phòng] Hoài Ân Vương phụng cúng vào mùa hạ năm Bảo Đại thứ 15 [1940]).

2. Lầu Ông Hoàng Mười - Nơi kết nối giữa quá khứ và hiện tại

Dưới triều vua Thành Thái, năm 1897, khi 3 hoàng đệ là Bửu Toản, Bửu Liêm, Bửu Lỗi đến tuổi gần trưởng thành, nhà vua đã chọn một cuộc đất tốt lành nằm ở bờ Bắc sông Ngự Hà, bên phải điện Long An, phía trước bên trái Trường Thi tại phường Quả Nghị (thuộc nội vi Kinh thành Huế)23 để giao cho Bộ Công xây dựng ba tòa phủ đệ tọa lạc gần nhau để các ông hoàng thuận tiện cho việc cư trú và học tập24. Đến năm 1904, hoàng thân Bửu Liêm được vua Thành Thái phong tước Hưng Nhân Quốc công và ban cho một phần đất trong khu vực Thương Bạc để xây cất phủ mới25. Cách đó không xa là biệt phủ của đức ông Tuyên Hóa Công Bửu Toản26.

Sinh sống trong ngôi phủ đệ này trong khoảng thời gian không được bao lâu thì năm 1908, vua Duy Tân cho chuyển dời Trường Nữ sinh bản xứ Huế (Ecole des Jeunes filles indigènes de Hué) tới phủ Hưng Nhân Quốc công do trường đặt ở Đại Lý Tự trong Thành nội nên có quy mô nhỏ hẹp, không còn phù hợp với số lượng học sinh ngày càng đông. Sau đó, đức ông Quốc công Bửu Liêm được triều đình cấp 7000 đồng để xây dựng phủ đệ mới ở phố Gia Hội, nằm phía đông Kinh thành Huế. Sự việc này được đề cập lại trong bản Tấu của Bộ Công vào ngày 2 tháng 7 năm Duy Tân thứ 2 [1908] như sau: “Bộ Công tâu: Phụng xét, phủ đệ của Hưng Nhân Quốc công, Công đó tình nguyện giao lại để nhà nước dùng. Kỳ hội bàn ngày 21 tháng 4 năm nay nhận được lời bàn của quý Khâm sứ đại thần bàn cấp 7000 đồng cho công đó mua và xây dựng phủ đệ ở nơi khác, còn nhà cửa của phủ này nên cho tu bổ lại rồi đặt dùng làm Trường nữ sinh ở đây. Nay công đó đã di chuyển chỗ ở, Bộ thần phái thuộc viên đến kiểm tra nơi đó, các khoản cần tu bổ, số công thợ, vật liệu cần thuê mua cộng chi hết 927 đồng 8 hào 7 xu, lẽ ra cần theo lệ đấu giá thuê làm. Chỉ có điều tu bổ phủ đó, cần có nhiều công việc phải bàn, nếu như hoạch định chương trình, cách thức rồi niêm yết đấu giá lãnh thầu sẽ không tránh khỏi chờ đợi, chậm trễ. Vì vậy xin nên do Bộ thần chọn thuê người lãnh thầu hiểu biết quen việc, thuê nhiều phu thợ tu bổ. Và phái thuộc viên đến kiểm tra, đôn đốc cho kịp sớm xong việc tu bổ, giao cho trường giảng dạy. Số ngân khoản này (như trên) xin trích trong ngân khoản công tác tại Kinh năm nay chi ra. (Châu điểm). Đã bàn với quý Khâm sứ Đại thần Phụ Quốc công Lê Viết (Lévecque) phúc đồng thuận, xin chuẩn cho thi hành. Vì thế mạo muội tâu trình lên, chờ chỉ ban hành”27.

Toàn cảnh Trường THPT Gia Hội

Sau khi nhận được tiền trợ cấp của triều đình, đức ông Bửu Liêm đã mua lại mảnh đất vườn phủ Tân Bình Quận công28 ở ấp Đông Trì (thuộc phường Đệ Lục, thị xã Huế) để lập phủ mới. Địa giới khuôn viên đất phủ Hoài Ân Vương lúc bấy giờ phía bên tả (nhìn vào) giáp phủ Trấn Tĩnh Quận công29 và đệ Đồng Phú Công chúa30 (thuộc xóm Trường Trạch), bên hữu giáp phủ Cẩm Giang Quận công32. Là một người theo Tây học nên kiến trúc phủ đệ của đức ông Bửu Liêm có nét khác biệt hẳn so với nơi ăn chốn ở của các ông hoàng, bà chúa khác. Đó là một ngôi biệt phủ sang trọng có cấu trúc 1 tầng trệt và 1 tầng lầu, mang đậm dấu ấn kiến trúc Pháp. Vì vậy trong dân gian thường gọi phủ Hoài Ân Vương là lầu Ông Hoàng Mười. Ngoài hệ thống cổng ngõ và la thành phía trước thì 3 mặt phủ trồng tre và cây xanh. Trước nhà chính còn có hồ nước rộng trồng sen. Trong những năm đầu thế kỷ XX, lầu Ông Hoàng Mười rất nổi tiếng ở vùng đất Gia Hội - Chợ Dinh, thậm chí con đường chạy ngang qua (tức đường Minh Mạng33) cũng được dân chúng gọi là đường Ông Hoàng Mười.

Sau khi triều Nguyễn cáo chung (1945), đời sống con cháu của đức ông Hoài Ân Vương ngày càng sa sút, đến nỗi phải bán luôn phủ thờ vào khoảng năm 1952 để vào Nam sinh sống. Trải qua vài đời chủ, năm 1964, phủ Hoài Ân Vương xưa được chính quyền chế độ cũ trưng dụng làm chi nhánh của Trường Trung học Hàm Nghi. Đến ngày 7/2/1966, Trường Trung học Gia Hội (sau đổi tên thành Trường THPT Gia Hội) được chính thức thành lập tại khuôn viên phủ Hoài Ân Vương. Lúc này, Trường do thầy Vĩnh Quyền34 làm Hiệu trưởng, thầy Phan Thanh Thiên làm Giám học và thầy Tống Phước Định làm Giám thị. Các hạng mục kiến trúc thuộc phủ Hoài Ân cũng được nhà trường bố trí phục vụ nhiều chức năng khác nhau như nhà chính có kiến trúc 2 tầng lầu (từng là nơi ở của đức ông Bửu Liêm cùng gia đình) được sử dụng làm phòng làm việc của Ban Giám hiệu, dãy nhà ngang (từng là nơi ở của các gia nhân) được dùng làm khu tập thể của giáo viên… Từ năm 1975 đến nay, Trường Gia Hội được đầu tư xây dựng khang trang, đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, điều này đồng nghĩa với việc lầu Ông Hoàng Mười bị phá bỏ, và hồ nước xưa kia bị san lấp để lấy mặt bằng xây dựng trường. Và chỉ còn những cây nhãn, vải trạng cổ thụ lặng lẽ đứng đó, như những chứng nhân trầm mặc của thời gian.

3. Chốn an nghỉ ngàn thu

Sau khi qua đời, đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm được an táng theo nghi thức tước Thân vương trong một ngôi viên tẩm có địa thế khoáng đạt, uy nghiêm nằm dưới chân núi Ngự Bình thơ mộng. Ngày nay, viên tẩm của đức ông Hoài Ân tọa lạc tại địa chỉ số 20 kiệt 12 đường Nguyễn Khoa Chiêm, phường An Cựu, thành phố Huế. Đây là khu viên tẩm, quy mô khá hoành tráng, phong cách kiến trúc độc đáo, trên một mặt bằng diện tích khoảng chừng 200m2, phần mộ quay về hướng Bắc. Diện mạo của khu viên tẩm này còn khá nguyên vẹn, dấu vết của hai lần trùng tu vào năm 1987, 2009 theo chúng tôi nhận thấy về cơ bản không làm biến dạng nhiều về cả quy mô, bố cục lẫn phong cách kiến trúc của tẩm mộ. Trong cả hai lần trùng tu đó, con cháu trong phủ chỉ sửa sang, kiến thiết một số chi tiết nhỏ như dựng thêm một tấm bia bằng chữ Quốc ngữ ghi lại sự kiện bà Công nữ Kiều Xuân cho trùng tu viên tẩm vào ngày 3/3/1987, lát gạch nền và ốp gạch ngôi mộ.

Toàn cảnh viên tẩm của đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm


Ấn tượng đầu tiên khi đặt chân đến khu viên tẩm của đức ông Hoài Ân Vương là một tấm bia đá dựng trang trọng ở phía trước tẩm mộ. Bia đá thanh hình chữ nhật với chiều cao 115cm, rộng 60cm, dày 10cm. Trán bia trang trí biểu tượng “Lưỡng long chầu nhật”, diềm bia trang trí dải hoa dây cúc uốn lượn nhịp nhàng nhằm biểu thị như ước nguyện về sự trường tồn, bền bỉ và là niềm vui, sự viên mãn, an khang. Lòng bia khắc bản sách phong của vua Bảo Đại ban cho đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm vào ngày 3 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 15 [1940], thể hiện rõ nét ân điển của triều đình đối với một vị hoàng thân tài đức vẹn toàn. Dưới đây là phần chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa của văn bia này:

維保大十五年歲次庚辰七月已卯朔越三日辛巳

承天興運皇帝若曰朕惟懿親舊德義能盡於始終睦族深懷恩兼隆於存往特彰異數戴錫新章睠惟懷恩郡王故寶嵰純篤性天慈祥心地少歲能敦友愛樓聯花萼之輝幾番疊荷寵榮周爵受桐圭之賜勵學業而勤磨琢久著賢名肩忠孝以享尊榮恪遵侯度曾沛九宵春露冀葛藟之庇根詎期一夜秋風忽金枝之辞樹念平日處家樂善心下愧於古人申尊盟與國同休名宜榮於身後兹特追封為懷恩王謚端恭錫之册命於戲衮葩一字載揚泉壤之光書券千秋永紀山河之誓繄惟靈爽服此休光欽哉

Văn bia khắc bản sách phong của vua Bảo Đại ban cho đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm vào năm 1940


Duy Bảo Đại thập ngũ niên, tuế thứ Canh Thìn, thất nguyệt Kỷ Mão sóc việt tam nhật Tân Tỵ
Thừa Thiên hưng vận Hoàng đế nhược viết.
Trẫm duy: Ý thân cựu đức, nghĩa năng tận ư thủy chung, mục tộc thâm hoài, ân kiêm long ư tồn vãng;
Đặc chương dị số, đái tích tân chương.
Quyến duy: Hoài Ân Quận vương cố Bửu Liêm, thuần đốc tính thiên, từ tường tâm địa, thiểu tuế năng đôn hữu ái, lâu liên hoa ngạc chi huy.
Kỷ phiên điệp hà sủng vinh. Chu tước thụ đồng khuê chi tứ.
Lệ học nghiệp nhi cần ma trác, cửu trứ hiền danh, kiên trung hiếu dĩ hưởng tôn vinh, khác tuân hầu độ.
Tằng phái cửu tiêu xuân lộ, ký cát lũy chi tý căn.
Cự kỳ nhất dạ thu phong, hốt kim chi chi từ thụ.
Niệm bình nhật xử gia lạc thiện, tâm hạ quý ư cổ nhân.
Thân tôn minh dữ quốc đồng hưu, danh nghi vinh ư thân hậu.
Tư đặc truy phong vi Hoài Ân Vương, thụy: Đoan Cung, tích chi sách mệnh.
Ô hô: Cổn ba nhất tự, tái dương tuyền nhưỡng chi quang.
Thư khoán thiên thu vĩnh kỷ, sơn hà chi thệ.
Ế duy linh sảng, phục thử hưu quang.
Khâm tai!

Dịch nghĩa:

Vào ngày Tân Tỵ (ngày 3) tháng Kỷ Mão (tháng 7) năm Canh Thìn, niên Bảo Đại thứ 15 [1940].

Thay trời hưng vận, Hoàng đế truyền rằng:
Trẫm nghĩ: Cựu đức của hoàng thân, nghĩa nên trọn vẹn trước sau.
Nghĩ sâu về dòng họ, ơn cần tốt cả còn mất.
Làm sáng tỏ mệnh lạ, ơn ban chiếu chỉ.
Mến nghĩ: Cố Hoài Ân Quận vương Bửu Liêm, tính trời thuần cẩn, tâm địa tốt lành.
Tuổi trẻ dốc tình thân ái, lầu liền đài cánh sáng tươi. Bao phen thấm đượm ơn vinh, phẩm tước hưởng ơn ban sáng tỏ.
Gắng việc học mà siêng năng mài giũa, từng nổi tiếng hiền, gánh trung hiếu để được vẻ vang, tuân theo đức độ.
Từng thấm nhuần mưa móc trời cao, mong cát đằng che kín gốc.
Nào ngờ đêm gặp gió thu, chợt cành vàng lìa gốc.
Nghĩ lúc bình sinh ở nhà vui thiện, lòng còn thẹn với người xưa.
Giữ lời thề cùng vui với nước, tên còn sáng tỏ về sau.
Nay đặc biệt truy phong làm Hoài Ân Vương, thụy là Đoan Cung, ban cho sách mệnh.
Hỡi ôi! Một chữ cổn hoa35, biểu dương ánh sáng nơi chín suối.
Thư son khoán sắt ngàn năm, mãi ghi lời thề non nước.
Hỡi đây hồn thiêng, nhận đây ánh sáng.
Hãy kính thay!

Bia tẩm mộ của đức ông Hoài Ân Vương chạm khắc họa tiết tinh xảo

Phía sau bia đá là khu mộ phần của Hoài Ân Vương Bửu Liêm. Khu vực này được bao quanh bằng 2 vòng lan can bằng gạch. Lan can phía ngoài có chiều dài 12.4m, rộng 9.2m, với các trụ có đỉnh gắn hình tròn. Lan can phía trong có chiều dài 8m, rộng 5.2m, với các trụ có đỉnh gắn hình viên long (rồng cuộn tròn), đồng thời gắn với cổng tẩm mộ kiểu tứ trụ dùng bốn trụ biểu với đỉnh trụ cũng trang trí kiểu viên long, hai trụ giữa cao hơn hai trụ bên để chia thành một lối đi vào mộ phần. Chính giữa là một nấm mộ ốp gạch nằm im lìm như chìm trong giấc ngủ ngàn thu. Phía sau mộ có một tấm bia đính vào bình phong hậu kiểu dáng độc đáo. Bia bằng đá thanh, có dạng “Tam sơn”, mặt trên trán bia trang trí hình tượng “Lưỡng long chầu Hổ phù”, diềm bia và tai bia trang trí mô típ rồng, tứ quý (mai, lan, cúc, trúc), hồi văn chữ Vạn cách điệu, nét chữ trên bia khắc khá sâu. Bia có chiều cao tổng thể 120cm, rộng 52cm, dày 4cm. Lòng bia tẩm mộ Hoài Ân Vương Bửu Liêm ghi (từ phải qua trái): “[phải] Bảo Đại Canh Thìn mạnh đông cát nhật. [Giữa] Hoài Ân Vương chi tẩm. [Trái] Hiếu tử Vĩnh Giao phụng khắc” 保大庚辰孟冬吉日。懷恩王 㞢寢。孝子永蛟奉刻. (Ngày tốt đầu mùa đông năm Canh Thìn [1940], niên hiệu Bảo Đại. Tẩm mộ của ngài Hoài Ân Vương. Con trai là Vĩnh Giao kính khắc bia). Ngoài ra trong khuôn viên tẩm mộ còn xây bồn hoa trồng cây cảnh và án thờ thổ thần.

4. Lời kết

Có thể nói, với tài năng và đức độ của mình, đức ông Hoài Ân Vương Bửu Liêm luôn được triều đình trọng vọng, giới viên chức Pháp đương thời quý trọng, và nhân dân nơi ông sinh sống hết lòng ngưỡng mộ. Là một vị hoàng tử chịu ảnh hưởng sâu đậm của Tây học, phủ đệ và viên tẩm của ông mang phong cách kiến trúc độc đáo, khác biệt rõ nét so với không gian sinh hoạt và nơi an táng truyền thống của các thành viên hoàng tộc triều Nguyễn. Dù ngày nay, phủ Hoài Ân Vương - lầu Ông Hoàng Mười vang bóng một thời không còn hiện hữu trên thực địa, nhưng dấu ấn của nó vẫn in đậm trong ký ức và hoài niệm của nhiều thế hệ người dân phố cổ Gia Hội.

T.V.D
(TCSH438/08-2025)

-------------------
1 Nay tọa lạc tại địa chỉ số 104 Nguyễn Chí Thanh, phường Phú Xuân, thành phố Huế.
2 Có thể đọc là Kiêm.
3 Bà Võ Văn Thị Đông là phi tần của vua Dục Đức. Năm 1919, bà được vua Khải Định phong làm Tứ giai Triêm tần. Đến năm 1935, bà tiếp tục được vua Bảo Đại gia phong làm Triêm phi.
4 Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, Bản dịch của Cao Tự Thanh, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh, tr. 447.
5 Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr. 496.
6 Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr. 564.
7 Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều Nguyễn, Duy Tân tập 20, tờ 09.
8 Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr. 573.
9 Châu Du Tử (1931), Gương tự lập, Imprimerie Đức Lưu Phương, Sài Gòn,  tr. 166.
10 Tràng An báo (1936), Tin Kinh đô - Thưởng Minh Nông Bội tinh, Tràng An báo, Số 172 (ra ngày 10/11/1936), Huế, tr. 2.
11 Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr. 613.
12 Thái Văn Toản 蔡文瓚 (1885 - 1952) từng tốt nghiệp Trường Thông ngôn, làm việc tại văn phòng Thống sứ Bắc Kỳ, rồi được bổ dụng làm thông ngôn cho vua Khải Định. Sau đó lần lượt được triều đình bổ nhiệm các chức vụ trọng yếu như Bố chánh Quảng Nam, Phủ doãn Thừa Thiên, Tổng đốc Thanh Hóa, Thượng thư Bộ Hộ, Thượng thư Bộ Lại sung Cơ Mật Viện đại thần,…
13 Lấy theo tên huyện Hoài Ân thuộc tỉnh Bình Định cũ.
14 Quốc sử quán triều Nguyễn (2010), Đồng Khánh - Khải Định chính yếu, Bản dịch của Nguyễn Văn Nguyên, Nxb. Thời Đại, Hà Nội, tr. 310-311.
15 Nguyễn Cao Tiêu (1923), Ngự giá như Tây ký, Nhà in Đắc Lập, Huế, tr. 14.
16 Hà Thành ngọ báo (1933), “Tin Kinh đô: Lễ tấn phong tước Quận vương cho đức ông Hoài Ân Công”, Hà Thành ngọ báo, Số 1760 (ra ngày 14/7/1933), Hà Nội, tr. 1.
17 Ngọc Trản (1933), Tin thêm về lễ tấn phong tước vương cho Hoài Ân Công Bửu Liêm, Hà Thành ngọ báo, Số 1761 (ra ngày 18/7/1933), Hà Nội, tr. 1.
18 La Patrie Annamite, Un deuil dans la famille royale: Décès de S. A. R. le Prince Buu Liem (Một buổi tang lễ trong gia đình hoàng gia: Hoàng tử Bửu Liêm từ trần), 10 Août 1940, Hanoi, p. 1.
19 Bà có nguyên quán làng Phò Trạch (nay thuộc phường Phong Dinh, thành phố Huế).
20 Tràng An báo (1936), “Phong tước”, Tràng An báo, Số 165 (ra ngày 16/10/1936), Huế, tr. 1.
21 Chùa Phước Điền tọa lạc tại địa chỉ số 17 - 19, đường Nguyễn Chí Thanh, phường Phú Xuân, thành phố Huế.
22 Chùa Quang Đức ở làng An Vân, (nay thuộc phường Hương An, thành phố Huế).
23 Nay khu vực này thuộc địa phận phường Phú Xuân, thành phố Huế.
24 Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều vua Thành Thái, tập 32, tờ 49-50.
25 Nguyễn Đình Hòe (1997), “Lịch sử Trường Hậu bổ ở Huế”, tập san BAVH, tập II, 1915, bản dịch của Đặng Như Tùng, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 35.
26 Phủ của ông hoàng Bửu Toản tọa lạc tại địa chỉ số 31 Trần Hưng Đạo, phường Phú Xuân, thành phố Huế.
27 Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản triều vua Duy Tân, tập 12, tờ 125.
28 Đức ông Tân Bình Quận công Miên Phong (1824 - 1860) là con trai thứ 27 của vua Minh Mạng, mẹ là Quý nhân Đỗ Thị Tùng.
29 Đức ông Trấn Tĩnh Quận công Miên Dần (1829 - 1885) là con trai thứ 45 của vua Minh Mạng, mẹ là Quý nhân Đỗ Thị Tâm.
30 Đức bà Đồng Phú Công chúa Ý Phương (1840 - 1915) là con gái thứ 24 của vua Thiệu Trị, mẹ là Lương phi Võ Thị Viên.
31 Nay là kiệt 277 đường Chi Lăng, phường Phú Xuân, thành phố Huế.
32 Đức ông Cẩm Giang Quận công Miên Vãn (1832 - 1895) là con trai thứ 59 của vua Minh Mạng, mẹ là Quý nhân Đỗ Thị Tâm.
33 Đường Minh Mạng sau năm 1956 đổi tên thành Võ Tánh, đến đầu năm 1977 được đặt tên là đường Nguyễn Chí Thanh. Trước năm 1945, phủ Hoài Ân Vương tọa lạc tại địa chỉ số 66 đường Minh Mạng.
34 Vĩnh Quyền 永鬈 (sinh năm 1937) là con trai trưởng của cụ Bửu Mạn, hậu duệ của hoàng tử Lạc Biên Quận công Miên Khoan. Sau khi tốt nghiệp ngành Anh văn tại Trường Đại học Sư phạm Huế (1960), ông đi dạy tại Trường Quốc Học Huế, rồi chuyển đi làm Giám học tại Trường Nguyễn Hoàng tỉnh Quảng Trị. Đến 1966, ông chuyển về làm Hiệu trưởng tại Trường TH Gia Hội. Qua năm 1970, ông được bổ nhiệm làm Chánh sở Học chánh Huế.
35 Cổn hoa: Áo lễ phục dùng để thiết triều. Ý nói triều đình ân sủng ban tặng sâu dày.

 

Các bài đã đăng