Ai ra xứ Huế
Về 2 bản sắc phong thời Duy Tân lưu giữ ở dòng họ Nguyễn Thanh, làng An Dương, phường Thuận An, thành phố Huế
16:04 | 10/10/2025


LÊ THỌ QUỐC - LÊ ANH TUẤN

Về 2 bản sắc phong thời Duy Tân lưu giữ ở dòng họ Nguyễn Thanh, làng An Dương, phường Thuận An, thành phố Huế
Làng An Dương - Ảnh: tư liệu

1. Vài nét khái quát về làng An Dương và dòng họ Nguyễn Thanh

Làng An Dương thuộc phường Thuận An, thành phố Huế, trước đây thuộc xã Phú Thuận, huyện Phú Vang, thành phố Huế. Trên dải cồn cát được mệnh danh là “Tiểu Trường Sa”, làng An Dương là 1 trong nhiều làng xã hình thành sớm trên vùng đất ven biển Thừa Thiên Huế, vào khoảng nửa cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII. Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1776), cho biết làng An Dương là 1 trong 12 xã, 1 thôn và 9 phường của tổng Kế Thực (hay có sách chép là Kế Mỹ) gồm: “các xã Kế-thực, Bình-trị, Thái-dương-thượng, Tháidương-hạ, Hòa-duân, Quảng-xuyên, Lương-viện, An-dương, Kế-đăng, Cự-lại, Ba-lăng, Viên-trình, thôn Hoa-lộc, các phường Hà-thanh, Mai-lộc, Đường-dã, Tân-xa, Hoa-dương, Hà-hồng, Hoa-diên, Khánh-mỹ, Diêm-tụ”1.

Song hành với việc khai phá lập làng An Dương là sự hình thành “bát tộc khai canh” đều từ làng Thanh Hà ở Thanh Hóa vào theo đường biển, là các họ Ngô Đức, Nguyễn Văn (2 họ), Trương Viết, Trương Phước, Phan, Nguyễn Thanh, Võ Văn: “Khai thác giang sơn đồng bát tộc. Canh tân địa bộ vương sắc phong”. Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng, khi đến vùng đất này, mỗi tộc đều phân chia một khu vực để khai phá, phát triển nghề ngư được phân rõ qua câu truyền miệng xếp vần lục bát như sau: “Nguyễn, Ngô thì ở Phú Ninh, Trương, Phan An Lạc, Nguyễn Thanh Mỹ Thành”.

Tộc Nguyễn Thanh là một trong “bát tộc khai canh” làng An Dương, có công lao to lớn trong việc khai phá đất đai, quy dân lập ấp và phát triển ngư nghiệp. Thỉ tổ tộc Nguyễn Thanh là ngài Nguyễn Thanh húy Hoằng từ Thanh Hà2 vào sinh tụ, khai phá lập làng, tạo dựng tộc Nguyễn Thanh ngày một lớn mạnh, góp phần phát triển quê hương, xây dựng đất nước. Đối chiếu với cuốn phổ về ghi chép nhánh thứ hai tộc Nguyễn, cuốn phổ thời Tự Đức năm thứ 5 [1852] do đời thứ 8 soạn viết và thời Khải Định nguyên niên [1916] do ông Nguyễn Hành soạn viết đều có ghi: Đời thứ 6 ông Thanh Liễu - là con trai thứ ba ông Chí Thành được sanh vào năm Cảnh Hưng thứ 25 [1764], nếu tính một đời tầm 25 năm lấy vợ sinh con thì ngược trở về đời thứ nhất cách nhau đến 125 năm. Nhẩm tính trong khoảng thời gian này, có thể thấy tộc Nguyễn Thanh vào thác thổ cùng các họ tộc khai canh khác xây dựng nên vùng đất An Dương trong khoảng từ năm 1624 đến 1639. Trong quá trình phát triển, từ đời thứ 4, tộc Nguyễn Thanh được tách thành 3 phái: [1]. Phái nhất bắt đầu từ ông Nguyễn Thanh húy Man - là con ông Thanh Hoa làm tổ thứ nhất của ba chi phái nhất; [2]. Phái nhì xuất phát từ ông Nguyễn Thanh húy Châu (Chua) - là con ông Thanh Miễn; [3]. Phái ba xuất phát từ ông Nguyễn Thanh húy Hưng - con của ông Thanh Thắng. Đến nay tộc họ phát triển đến đời thứ 18, gồm 3 phái và một nhánh phát triển ở Quảng Nam.

Nhà thờ họ được người con trưởng của ngài Từ Huệ là ngài Nguyễn Thanh húy Hoa cùng với những người em của mình tu sửa mới vào năm Minh Mạng thứ 19 [1838] đến năm Tự Đức thứ 10 [1857], con cháu theo nền cũ tu bổ lại lần nữa. Từ đó trở về sau tộc họ ngày càng phát triển, con cháu đã chung tay đóng góp, dựng xây lại nhà thờ họ ngày càng khang trang, to đẹp như hiện nay.

2. Văn bản Hán Nôm lưu giữ ở dòng họ Nguyễn Thanh, làng An Dương

Trải qua hơn 4 thế kỷ với nhiều biến thiên của thời cuộc, nhất là qua hai cuộc chiến tranh ác liệt vào nửa đầu thế kỷ XX, đã làm cho tư liệu Hán Nôm ở các làng xã và họ tộc thất tán, thiêu hủy, tư liệu của họ Nguyễn Thanh cũng chung số phận như vậy dù con cháu hậu thế đã lưu tâm gìn giữ. Trong số tư liệu còn lưu giữ, đáng chú ý và giá trị là 2 văn bản sắc phong thời Duy Tân năm thứ 7 và 05 văn bản gia phổ, phó ý (một văn bản niên đại thời Tự Đức thứ 5 [1852], một văn bản thời Khải Định nguyên niên [1916], hai văn bản tộc phổ được biên chép vào năm Ất Mùi [1955] và một văn bản không ghi niên đại),  một văn cúng (không ghi niên đại) và một tờ ghi niên đại năm Nhâm Dần [1974]. Cụ thể như sau:

- Gia phổ “Nguyễn gia đệ nhị hệ thật lục quyển”, Tự Đức năm thứ 5 [1852], 31 trang. Bản phổ ghi lại từ đời thứ nhất đến đời thứ 10 do cháu Đệ nhất hệ đời thứ 8 là Nguyễn Quang Hưởng soạn và Nguyễn Thanh Tống viết lại. (Cháu thuộc nhánh thứ nhất và nhánh thứ hai đời thứ 8 là Nguyễn Quang Hưởng (soạn), Nguyễn Thanh Tống (viết lại), Nguyễn Thanh Sách (khai), Nguyễn Thanh Xoài (cất giữ thờ tự) vào ngày đầu mùa đông tháng 11 năm Nhâm Tý).

- Gia phổ “Nguyễn Thanh tộc phổ”, 119 trang. Bản phổ không ghi niên đại, chỉ viết đến đời thứ 9 và không ghi người đứng soạn.

- Gia phổ “Nguyễn tộc Đệ nhị phái phổ hệ”, Khải Định nguyên niên [1916], 50 trang. Bản phổ do Nguyễn Hành kính ghi lại từ đời Thỉ tổ đến đời thứ 7.

- Tộc phổ “Nguyễn Thanh tộc phổ”, năm Ất Mùi [1955], 64 trang. Bản phổ ghi từ đời ngài Thỉ tổ đến đời thứ 5 theo các bản chữ Hán, chép lại và phụ chú Quốc ngữ vào ngày 16 tháng 10 năm Ất Mùi. Do tộc trưởng Thanh Tuy, Phái trưởng Thanh Quyền và Thanh Tuân ghi lại.

- Tộc Phổ “Nguyễn Thanh tộc phổ”, năm Ất Mùi [1955], 220 trang. Bản phổ ghi từ đời thứ 6 đến đời thứ 10 theo các bản chữ Hán, chép lại và phụ chú Quốc ngữ vào ngày 16 tháng 10 năm Ất Mùi. Do tộc trưởng Thanh Tuy, Phái trưởng Thanh Quyền và Thanh Tuân ghi lại.

- Sắc phong cho “Bổn thổ tiền Khai canh Nguyễn Thanh đại lang”, Duy Tân năm thứ 7 [1913].

- Sắc phong cho “Bổn thổ Khai canh Nguyễn đại lang”, Duy Tân năm thứ 7 [1913].

Tư liệu tộc phổ Nguyễn Thanh cho biết, trong 5 đời đầu (từ ngài thỉ tổ trở xuống), trong họ tộc đều có những người giữ chức tước, được sắc phong và kiêm nhiệm quản lý làng xã như: Ngài thỉ tổ Nguyễn Thanh húy Hoằng thụy là Khoan Hậu và người con út của ông là Nguyễn Thanh húy Bi thụy là Từ Huệ được ban tặng sắc phong Bổn thổ Khai canh vào năm Duy Tân thứ 7 [1913]; hai Tướng thần3 là hai người con trưởng và con thứ của ngài thỉ tổ: Nguyễn Thanh húy Ngọ thụy Dũ Hậu và Nguyễn Thanh húy Loan thụy là Cương Trực. Đến đời thứ 5 có ngài Nguyễn Thanh húy Ngại, tên thụy là Đôn Hậu - là con thứ tư của ông Thanh Man. Ông là một người thông minh, ôn hòa, giữ mình thuần hậu và có nhiều đóng góp cho làng xã. Đến tháng 10 năm Cảnh Hưng thứ 39 [1778] ngài được sai phái làm chức Bình Nam đại tướng quân kiêm lãnh xứ Thuận Hóa, kiêm chức quan Đốc suất khán thủ trong xã với thời gian là 24 năm. Đến năm Tân Dậu [1801] ông mất thọ 73 tuổi.

Có thể nhận thấy, văn bản Hán Nôm lưu tại họ tộc Nguyễn Thanh dù không nhiều nhưng đã minh chứng cho một quá trình phát triển họ tộc liên tục qua 18 đời - kể từ ngài thỉ tổ đến hiện nay. Đồng thời, cũng gợi mở nhiều vấn đề trong việc nghiên cứu làng xã vùng ven biển của thành phố Huế với các giai đoạn khác nhau từ việc hình thành làng xã, phát triển họ tộc, đóng góp xây dựng phát triển quê hương qua hơn 4 thế kỷ.

3. Hai sắc phong Bổn thổ khai canh của dòng họ Nguyễn Thanh

Với bề dày phát triển họ tộc hơn 400 năm qua, tộc Nguyễn Thanh làng An Dương cũng như nhiều họ tộc các làng xã ở vùng Huế đều được sắc phong thỉ tổ là Khai canh, Khai khẩn dù thần hiệu này ra đời khá muộn và phải đến dưới thời vua Duy Tân [1907 - 1916] mới được triều đình chuẩn hóa và ân ban sắc phong. Hai đạo sắc phong cho hai ngài tộc Nguyễn Thanh, đều được ban vào năm 1913, Duy Tân năm thứ 7, hiện nay được lưu giữ tại từ đường. Hai bản sắc phong có kích thước 122cm x 50cm, chất liệu là loại giấy có màu đỏ vàng, dày và cứng; bốn góc bổ 4 chữ thọ lớn, bên trong lòng sắc bố trí đồ án rồng và các điểm chấm tròn nhỏ màu đen. Về nội dung, bên phải toàn văn bản sắc phong được viết bằng chữ Hán theo lối chữ chân, to và rõ ràng. Bên trái là dòng lạc khoản ghi niên đại và dấu triện Sắc mệnh chi bảo [敕 命 之寶] màu đỏ son rất đẹp, tươi mịn. Bao quanh sắc phong trang trí bằng những đường diềm hoa thị, hồi văn chữ vạn kết hợp với các dải kỷ hà. Hai sắc phong này đều chung một đặc điểm với hệ thống sắc phong dưới thời nhà Nguyễn. Sự thống nhất này được thể hiện rất rõ ràng cả về hình thức lẫn nội dung trình bày.

* Sắc phong Bổn thổ Khai canh Nguyễn đại lang

Theo phổ cũ cho biết ngài thỉ tổ họ Nguyễn Thanh tên húy là Hoằng thụy là Khoan Hậu từ làng Thanh Hà vào vùng tiểu trường sa ven biển Thuận Hóa thác thổ khai cương, quy dân lập ấp cùng các tộc họ khác tạo dựng nên làng An Dương và phát triển dòng họ cho đến nay. Khi ngài tạ thế đã được làng lập miếu thờ ở phía tây, đầu địa giới của làng và thường năm vào dịp thu tế của làng, tổ chức cúng tại đình làng rất trọng hậu. Đến năm Duy Tân thứ 7 được ban tặng sắc phong là Bổn thổ Khai canh Nguyễn đại lang tôn thần và được tặng mỹ tự là Dực Bảo Trung Hưng.

Sắc phong Bổn thổ Khai canh Nguyễn đại lang


Nguyên văn:

敕承天省富榮縣安楊社奉事本土開耕阮大郎之神稔著靈應向來未有預封肆今丕承耿命緬念神庥著封爲翊保中興靈扶之神準依舊奉事神其相佑保我黎民欽哉

維新柒年拾月初捌日.

Phiên âm:

Sắc Thừa Thiên phủ Phú Vang huyện An Dương xã phụng sự Bổn Thổ Khai canh Nguyễn đại lang chi thần nẫm trứ linh ứng. Hướng lai vị hữu dự phong. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh miến niệm thần hưu, trứ phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần, chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Duy Tân thất niên thập nguyệt sơ bát nhật [chu ấn: Sắc mệnh chi bảo].

Dịch nghĩa:

Sắc cho xã An Dương huyện Phú Vang phủ Thừa Thiên thờ phụng thần Bổn Thổ Khai canh Nguyễn đại lang linh ứng hiển hách. Trước nay chưa từng được dự ban sắc phong. Luyến nay vào lúc trẫm kế thừa mệnh lớn [nối ngôi] mến nghĩ đến sự tốt lành của thần, bèn gia phong thần là Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần, chuẩn cho thờ phụng như cũ. Những mong thần hãy phò trợ, bảo vệ dân ta. Khâm tai!

Ngày 08 tháng 10 năm Duy Tân thứ 7 [1913] (ấn son: Sắc mệnh chi bảo).

* Sắc phong Bổn thổ Khai canh Nguyễn Thanh đại lang

Bổn xã tiền khai canh Nguyễn Thanh húy Bi tên thụy là Từ Huệ, là con út ngài Khoan Hậu. Ngài cùng hai anh khai phá đất đai, nhưng việc chưa thành hai anh đã qua đời giao lại mọi việc cho em lo liệu. Ngài mất vào ngày 28 tháng 7, mộ chôn ở làng. Theo cựu phổ, cho biết trước đấy làng có làm thần chủ là: Thỉ tổ khảo Nguyễn Thanh Bi tôn thần, trần thiết thờ ở án tả trong chùa làng. Thường năm thu tế tại đình được cung rước thần chủ về đình ở căn tả phụ tế với Thần. Đây cũng là do ngài có công trong việc triều chánh, lo toan cho dân chúng trong làng. Đến năm Duy Tân thứ 7 được sắc phong là Bổn thổ khai canh Nguyễn Thanh đại lang tôn thần với mỹ tự là Dực Bảo Trung Hưng và thần sắc được thờ ở nhà thờ họ.

Sắc phong Bổn thổ Khai canh Nguyễn Thanh đại lang


Nguyên văn:

敕承天省富榮縣安楊社奉事本土開耕阮清大郎之神稔著靈應向來未有預封肆今丕承耿命緬念神庥著封爲翊保中興靈扶之神準依舊奉事神其相佑保我黎民欽哉

維新柒年拾月初捌日.

Phiên âm:

Sắc Thừa Thiên phủ Phú Vang huyện An Dương xã phụng sự Bổn Thổ Khai canh Nguyễn Thanh đại lang chi thần nẫm trứ linh ứng. Hướng lai vị hữu dự phong. Tứ kim phi thừa cảnh mệnh miến niệm thần hưu, trứ phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần, chuẩn y cựu phụng sự. Thần kỳ tương hựu bảo ngã lê dân. Khâm tai!

Duy Tân thất niên thập nguyệt sơ bát nhật [chu ấn: Sắc mệnh chi bảo].

Dịch nghĩa:

Sắc cho xã An Dương huyện Phú Vang phủ Thừa Thiên thờ phụng thần Bổn Thổ Khai canh Nguyễn Thanh đại lang linh ứng hiển hách. Trước nay chưa từng được dự ban sắc phong. Luyến nay vào lúc trẫm kế thừa mệnh lớn [nối ngôi] mến nghĩ đến sự tốt lành của thần, bèn gia phong thần là Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò chi thần, chuẩn cho thờ phụng như cũ. Những mong thần hãy phò trợ, bảo vệ dân ta. Khâm tai!

Ngày 08 tháng 10 năm Duy Tân thứ 7 [1913] (ấn son: Sắc mệnh chi bảo).

4. Thay lời kết

Tư liệu Hán - Nôm ở các làng xã nói chung và tộc Nguyễn Thanh nói riêng là những nguồn tư liệu quý, lưu giữ nhiều thông tin có giá trị liên quan đến lịch sử hình thành của một vùng đất, đánh dấu lẫn phản ánh xu thế tiếp biến, dung hòa và nuôi dưỡng các hệ giá trị của truyền thống văn hóa, đời sống tinh thần và các sinh hoạt tín ngưỡng của cư dân tại vùng đất này qua các thời kỳ, mà qua đó, giúp chúng ta thấy rõ một bức tranh lịch sử - văn hóa của người Việt trên một vùng đất cụ thể dù ít nhiều vẫn còn cần bổ khuyết. Trong xu thế hiện nay, việc nghiên cứu và bảo quản nguồn tư liệu Hán - Nôm đang đặt ra nhiều vấn đề về bảo quản tư liệu, cần có sự quan tâm của nhiều ban ngành, cơ quan hữu quan lẫn các chuyên gia về Hán - Nôm. Khi thực trạng đang diễn ra đối với việc lưu trữ, bảo quản chưa có một lưu tâm đầy đủ nhằm bảo quản tư liệu tốt nhất. Do đó, chúng ta cần có biện pháp kịp thời nhằm cứu vãn và bảo tồn nguồn tư liệu quý giá này. Với công tác thực hiện bảo quản tư liệu Hán - Nôm theo một lộ trình phù hợp, chúng tôi hy vọng trong tương lai sẽ hạn chế và không mất đi nguồn tư liệu quý này. Đồng thời, không chỉ giúp phát huy giá trị của chúng đối với di sản văn hóa Huế, mà quan trọng hơn, nhằm bảo tồn nguồn tư liệu Hán - Nôm quý giá, giúp hậu thế hiểu rõ về giá trị lịch sử, giá trị văn hóa, đời sống vật chất lẫn tinh thần, cũng như xác định vị thế của tộc Nguyễn Thanh trên vùng đất An Dương từ xưa đến nay.

Giá trị di sản Hán Nôm của tộc Nguyễn Thanh đã góp phần không nhỏ cho việc giải mã những vấn đề làng xã trong nghiên cứu lịch sử - văn hóa cũng như sự phát triển của vùng đất An Dương từ trong quá khứ đến nay. Điều này được thể hiện qua việc xác định sự hình thành làng xã người Việt vào đầu thế kỷ XVI trên dải đất ven biển vùng Huế bằng những văn bản cụ thể, rõ ràng và những hoạt động này được duy trì liên tục và mở rộng trong việc xác định cương vực, vai trò của làng An Dương dưới thời các chúa Nguyễn, vua Nguyễn sau này. Từ những tư liệu Hán Nôm mà tộc Nguyễn Thanh hiện còn lưu giữ chính là cầu nối, bằng chứng làm nổi bật vai trò của tộc Nguyễn Thanh trên vùng đất An Dương phường Thuận An hiện nay qua:

- Thứ nhất, tộc Nguyễn Thanh đã có vai trò trong việc giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa làng xã qua nguồn tư liệu Hán Nôm cùng việc duy trì tín lễ, quy cũ dòng họ từ xưa cho đến nay.

- Thứ hai, tộc Nguyễn Thanh là một trong tám đại tộc có danh vọng, công trạng trong việc phát triển làng xã, mộ dân lập ấp, khai mở đất đai dựng nên làng An Dương từ nửa thế kỷ XVI hình thành nên làng An Dương trù phú.

- Thứ ba, tộc Nguyễn Thanh đã đóng góp không nhỏ trong việc phát triển kinh tế, phát triển nghề ngư để hình thành một làng nghề khai thác, chế biến hải sản nổi tiếng trong vùng.

- Thứ tư, họ tộc chú trọng và khuyến khích phát triển quỹ khuyến học, khuyến tài của dòng họ ngày càng hiệu quả, động viên con cháu coi trọng việc học tập, tu dưỡng đạo đức, noi gương các thế hệ đi trước và tích cực ủng hộ, xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài của quê hương. Đồng thời, từ đó đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung của địa phương trên phương diện khuyến học khuyến tài.

L.T.Q - L.A.T
(TCSH439/09-2025)

-----------------
1 Viện Sử học (1977), Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1, Phủ biên tạp lục, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội, tr.79.
2 Theo nghiên cứu, ở miền Bắc chỉ có hai làng Thanh Hà: một làng thuộc tổng An Trú, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương; một làng thuộc tổng Cổ Định, huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia, trấn Thanh Hóa (Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Dương Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.29, 116). Từ cứ liệu này cùng với những diễn tiến của quá trình Nam tiến dưới thời các chúa Nguyễn, chúng tôi cho rằng làng Thanh Hà - quê hương ngài thỉ tổ tộc Nguyễn Thanh là làng Thanh Hà thuộc tổng Cổ Định huyện Nông Cống phủ Thanh Hóa là phù hợp và xác đáng nhất.
3 Một hình thức tuyển chọn quan lại khác là nộp tiền để làm quan. Việc này bắt đầu có từ thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Vào năm 1632, chúa cho phép những người nộp tiền, nộp thóc đều được vào làm ở Tam ty. Điều này dẫn đến số lượng quan địa phương rất lớn, mỗi xã có đến hơn 17 Tướng thần Xã trưởng. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục cho biết: “Tính cả trong hai xứ, quan bản đường chính ngạch vẫn nhiều, đặt thừa quá lạm, và tướng thần xã trưởng nhiều gấp đôi, không thể kể xiết” (Lê Quý Đôn (1964), Phủ biên tạp lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.155).

Tài liệu tham khảo:

1. Dương Văn An (2015), Ô Châu cận lục, bản dịch của Trần Đại Vinh, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
2. Mai Văn Được (2018), “Làng An Dương với nghề đánh bắt và chế biến hải sản”, trong Làng văn vật Thừa Thiên Huế, tập II, Nxb. Thuận Hóa.
3. Nguyễn Thị Vi (2015), Sự hình thành làng xã vùng ven biển huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế từ thế kỷ XV đến năm 1945, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Huế, Huế.
4. Nguyễn Văn Đăng, Mai Văn Được (2017), “Truyền thống kinh tế biển của một số dòng họ ở xã Phú Thuận và Phú Hải, tỉnh Thừa Thiên Huế”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (104), tr. 37-48.
5. Tài liệu Hán Nôm lưu giữ tại tộc Nguyễn Thanh làng An Dương, xã Phú Thuận, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Điền dã thu thập tư liệu vào tháng 9/2024.
6. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (1981), Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Dương Thị The, Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Viện Sử học (1977), Lê Quý Đôn toàn tập, Tập 1, Phủ biên tạp lục, Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.

 

 

Các bài đã đăng