Ai ra xứ Huế
Phủ Phù Mỹ Công và gánh hát Ông Tá Heo
10:21 | 01/12/2025


TRẦN VĂN DŨNG

Phủ Phù Mỹ Công và gánh hát Ông Tá Heo
Toàn cảnh phủ Phù Mỹ Công ở phố cổ Gia Hội

1. Lời dẫn

Phủ Phù Mỹ Công tọa lạc trên phố Gia Hội sầm uất một thời, không chỉ là một công trình mang dấu ấn kiến trúc quý tộc mà còn từng là điểm sinh hoạt văn hóa và nghệ thuật độc đáo trên mảnh đất đế đô. Nơi đây, gánh hát Ông Tá Heo mang đậm dấu ấn hoàng tộc, quy tụ nhiều đào kép, ca nương tài năng, thu hút đông đảo quan khách và tao nhân mặc khách khắp vùng đến thưởng thức. Sự kết tinh nghệ thuật cung đình và nét văn hóa dân gian tại phủ Phù Mỹ Công cùng gánh hát Ông Tá Heo đã tạo nên một không gian văn hóa đặc sắc, góp phần làm phong phú và phát triển các loại hình nghệ thuật truyền thống Huế. Không chỉ là niềm tự hào của gia tộc, phủ Phù Mỹ Công còn là minh chứng sống động cho sự hồi sinh mạnh mẽ của nghệ thuật tuồng và sự lan tỏa sâu rộng của Ca Huế đến mọi miền đất nước trong những thập niên đầu thế kỷ XIX. Bài viết này nhằm làm rõ giá trị lịch sử, văn hóa cũng như nghệ thuật của phủ Phù Mỹ Công và gánh hát Ông Tá Heo, qua đó góp phần bảo tồn và phát huy di sản văn hóa đặc sắc của vùng đất Cố đô Huế.

2. Tìm lại phủ Phù Mỹ Công

Ông hoàng Miên Phú sinh ngày 13 tháng Giêng năm Đinh Sửu (tức 28 tháng 2 năm 1817), là con trai thứ tám của vua Minh Mạng, mẹ là đức từ Cung nhân Trần Thị Nghiêm. Ông hoàng là con đầu lòng của bà và ngài Miên Phú, đức từ Cung nhân còn sinh thêm một hoàng tử và ba hoàng nữ1. Dù sinh được nhiều con cho vua Minh Mạng, bà Trần Thị Nghiêm suốt đời chỉ giữ thân phận Cung nhân, không được ban phong phẩm vị cao hơn trong hậu cung.

Khi còn là hoàng tử, Miên Phú có tính tình hiếu động, ít giữ lễ nghi trong khuôn phép. Một sự việc nghiêm trọng xảy ra vào năm Minh Mạng thứ 16 [1835] được ghi chép rõ trong Đại Nam thực lục: Trong một lần cưỡi ngựa dạo ngoài Hoàng thành cùng các gia nhân, sau khi Miên Phú đã về phủ, nhóm thuộc hạ của ông tiếp tục cho ngựa chạy đua, dẫn đến việc một cụ bà khoảng 80 tuổi bị giẫm chết. Vua Minh Mạng lập tức ra lệnh điều tra và xử lý nghiêm minh. Ông hoàng Miên Phú bị phế truất tước vị hoàng tử, tước mũ áo, cắt lương bổng và chịu phạt cấm túc trong phủ. Người trực tiếp gây ra cái chết, Hoàng Văn Vân bị xử chém; hai gia nhân khác bị đày đi Ai Lao sung quân và đánh 100 roi hồng côn. Ngoài ra, Miên Phú phải bồi thường 200 lạng bạc cho gia đình nạn nhân. Vua Minh Mạng phê dụ: “Trẫm làm việc chỉ giữ công bằng, quyết không có lý nghị thân, nghị quý. Phàm các em và con cháu, chớ nên coi khinh, lấy thân để thử pháp luật. Gương sáng chẳng xa, ai nấy phải kính cẩn đó!”2.

Năm 1837, sau khi biết hối cải vì sai lầm nghiêm trọng, Miên Phú được vua Minh Mạng tha thứ, cho phép hoàn trả mũ áo và vị hiệu hoàng tử. Ông được nhận một nửa lương hàng năm và tiếp tục học tập cùng các hoàng tử anh em, nhưng vẫn bị cấm không được vào chầu hầu. Đến tháng Giêng năm Thiệu Trị thứ 1 [1841], Phủ Tôn Nhơn, Viện Cơ Mật và Bộ Lễ đồng thuận đề nghị cho ông được để tang vua Minh Mạng trong 3 năm, mặc áo sổ gấu; đồng thời, trong các dịp lễ ân tiến và đại lễ, ông hoàng Miên Phú được đứng chầu cuối hàng hoàng đệ, nhưng không được dự các buổi cúng tế. Vua Thiệu Trị ban dụ rằng, nếu Miên Phú biết hối cải và chăm chỉ học hành, ông sẽ được phép tham gia lễ cùng ban hoàng đệ, nhưng không được bổ nhiệm làm thừa tế hay nhiếp tế. Đến năm 1843, ông mới chính thức được theo triều bái, ban một bộ mũ áo thường triều và cấp lại lương như các hoàng đệ chưa được phong tước3. Phải đến năm Tự Đức thứ 5 (1852), hoàng thân Miên Phú mới được phong tước Phù Mỹ Quận công 符美郡公, danh xưng lấy theo tên huyện Phù Mỹ ở tỉnh Bình Định. Việc ông được phong tước muộn hơn so với các hoàng tử cùng thời phần lớn xuất phát từ lỗi lầm nghiêm trọng dưới triều Minh Mạng.

Sau khi được phục hồi địa vị và phong tước Quận công, hoàng thân Miên Phú sống đời an nhàn trong phủ đệ, hầu như không tham dự vào các công việc hoàng gia. Tuy nhiên, trong đời sống thường nhật, ông lại nổi tiếng là người đam mê nghệ thuật, đặc biệt là bộ môn tuồng cổ. Với tình yêu sâu sắc dành cho sân khấu truyền thống, Quận công Miên Phú cho dựng rạp hát ngay trong phủ, thường xuyên tổ chức các buổi biểu diễn và đích thân tuyển chọn, nuôi dưỡng nhiều đào kép tài danh đương thời. Nhờ đó, rạp hát của ông dần trở thành một địa chỉ văn hóa - nghệ thuật có tiếng trong giới tao nhân mặc khách ở Kinh thành Huế. Tuy nhiên, cũng chính từ niềm đam mê này, ông một lần nữa vướng vào rắc rối với triều đình. Năm 1882, Phù Mỹ Quận công tổ chức một buổi diễn tuồng quy mô lớn tại phủ và mời cả người ngoại quốc đến dự xem. Việc này bị xem là vượt quá khuôn phép dành cho hoàng thân, đặc biệt trong bối cảnh triều Nguyễn đang thắt chặt quy củ và dè chừng ảnh hưởng của phương Tây. Sự việc bị người khác hạch tâu, khiến vua Tự Đức nổi giận, xuống chiếu đoạt tước Quận công và giáng ông xuống làm Kỳ Nội hầu 畿內侯. Mãi đến năm sau (1883), dưới triều vua Hiệp Hòa, xét thấy ông tuổi đã cao, lại không có ý làm trái điển lệ, nhà vua thương tình cho ông được phục lại tước vị cũ là Phù Mỹ Quận công4.

Ngày 28 tháng 2 năm Ất Dậu (tức ngày 15 tháng 4 năm 1885), đức ông Phù Mỹ Quận công qua đời, hưởng thọ 69 tuổi. Vua Hàm Nghi ban thụy là Cung Lượng. Viên tẩm của đức ông được táng tại làng Thanh Thủy, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên (nay thuộc phường Thanh Thủy, thành phố Huế)5. Đức ông Phù Mỹ Công Miên Phú có hậu duệ nối dõi đông con nhiều cháu. Đức ông sinh được 13 người con trai và 8 người con gái. Triều đình ban cho đức ông Phù Mỹ Quận công bộ chữ Thực 食 để đặt tên cho các con cháu trong phòng, theo lệ định thứ bậc và phân chi trong dòng họ hoàng tộc. Trong số các con, Hường Ninh 洪鐘 (1849 - 1876), con trai thứ tư của ông được vua Đồng Khánh tập phong tước Phù Mỹ Đình hầu 符美亭侯 vào năm 1887. Sau đó, ông được cải bổ làm Quản cơ kiêm Hiệp quản Nha Phụng hộ, giữ vai trò nhất định trong cơ cấu quân đội triều đình. Đến đời cháu nội, Công tôn Ưng Mão6 膺鉚 (1870 - 1947) tiếp tục được kế thừa tập tước. Năm 1894, dưới triều vua Thành Thái, ông được tập phong tước Tá Quốc khanh, cho thấy sự tiếp nối danh thứ của phòng Phù Mỹ Quận công trong hàng ngũ hoàng thân quốc thích triều Nguyễn.

Đến năm Bảo Đại thứ 19 [1944], đức ông Miên Phú được triều đình truy gia phong tước Phù Mỹ Công 符美公, cùng đợt với đức ông Miên Thủ. Bản tấu ngày 28 tháng 5 năm Bảo Đại thứ 19 (tức ngày 18/7/1944) của Thượng thư Bộ Lễ nghi Công tác Ưng Úy trình lên vua Bảo Đại nêu rằng “Thần Bộ tiếp Ngự tiền Văn phòng tư: Khâm phụng bàn giao giấy phụng biên của Tá Quốc khanh thần Ưng Mão xin truy gia phong cho vị Phù Mỹ Quận công, húy Miên Phú, con thứ 8 đức Thánh Tổ Nhơn Hoàng Đế. Lại tiếp tư giao giấy phụng biên của Quản lý Thị vệ thần Bửu Bành xin truy gia phong cho vị Hàm Thuận Quận công, húy Miên Thủ, con thứ 9 đức Thánh Tổ Nhơn Hoàng Đế. Phụng diện sắc do thần bộ xét nghĩ. Thần Bộ đã tư Phủ Tôn Nhơn cứu hành, tiếp phúc gần đây các vị Kiến Tường Quận công, Sơn Định Quận công đều mong gia phong lên Nhứt tự công, nay xin truy gia phong cho vị Phù Mỹ Quận công, vị Hàm Thuận Quận công cũng như các vị đã tự ở trên, Phủ ấy xin biểu đồng ý. Thần Bộ phụng cứu các vị Hoàng thân triều đức Thánh Tổ Nhơn Hoàng Đế đã mong truy gia phong cũng nhiều, vị Phù Mỹ Quận công thứ 8, vị Hàm Thuận Quận công thứ 9, đều về hàng trên, chưa mong truy phong, nay xin như vậy cũng phải. Xin cho hai vị Phù Mỹ Quận công và Hàm Thuận Quận công đều truy gia phong Nhứt tự công cho được triêm ân. Thần Bộ đã trình Thượng thơ Hội đồng và thương quý Khâm sứ Đại thần duyệt hiệu. Vậy kính tâu lên Hoàng thượng hậu phụng Tài - Định, như mông Du Doản hậu Chỉ lục tuân”. Bản tấu nói trên đã được vua Bảo Đại “chuẩn y”.

Bản tấu của Bộ Lễ nghi Công tác trình lên vua Bảo Đại phê chuẩn truy phong đức ông Miên Phú tước Phù Mỹ Công


Ngay sau đó, Bộ Lễ nghi Công tác đã tiến hành tổ chức lễ truy phong Phù Mỹ Quận công lên tước Thân công, ấn định vào ngày 2 tháng 7 năm Bảo Đại thứ 19 [1944]. Trong nghi lễ này, Phụng hộ sứ Bửu Tăng (thuộc phủ Hoằng Trị Vương) được triều đình cử vào điện Cần Chánh lúc 8 giờ sáng cùng ngày, mặc triều phục để lãnh mao tiết. Sau đó, ông đến phủ thờ Phù Mỹ tại Gia Hội, cử hành lễ tuyên phong trong không khí trang nghiêm. Khi lễ hoàn tất, Phụng hộ sứ Bửu Tăng quay trở vào Đại Nội, thực hiện lễ phục mệnh tam khấu và phụng nạp mao tiết theo đúng nghi thức triều đình7.

Phủ Phù Mỹ Công hiện tọa lạc tại số 41 Nguyễn Chí Thanh, phường Phú Xuân, thành phố Huế. Xưa kia, phủ đệ của ông hoàng Phù Mỹ được triều đình cho kiến lập tại làng Dương Xuân (huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên)8 theo lối kiến trúc nhà rường truyền thống. Trải qua thời gian, phủ từng được dời đến phường Phú Mỹ, phía đông Kinh thành và đến năm 1936 tiếp tục chuyển về địa điểm hiện nay, mang dáng dấp kiến trúc Pháp. Sau trận đại hồng thủy năm 1999, phủ Phù Mỹ Công bị hư hại nặng. Con cháu hậu duệ đã tiến hành trùng tu, tôn tạo công trình nhằm bảo tồn giá trị đồng thời giữ gìn dáng vẻ và các họa tiết trang trí truyền thống.

Nội thất phủ Phù Mỹ Công


Tổng thể phủ Phù Mỹ Công gồm ba hạng mục chính: cổng, bình phong và nhà chính. Từ bên ngoài nhìn vào là cổng phủ với hai trụ gạch đơn giản. Kế tiếp là bức bình phong hình cuốn thư cách điệu, xây bằng gạch và quét vôi màu tro. Ở trung tâm bình phong là hình tượng long mã, với mình ngựa vảy rồng, đầu rồng, lưng mang Bát quái trong tư thế uy nghi tiến về phía trước. Hình tượng này không chỉ mang giá trị trang trí trong không gian thờ tự mà còn hàm chứa ý nghĩa trấn trạch, ngăn tà khí. Đối diện với bình phong là chính điện - một ngôi nhà ba gian theo kiểu kiến trúc truyền thống, được trang trí công phu và độc đáo. Nóc mái nổi bật với hình tượng lưỡng long chầu nhật, trong khi các trụ cột đắp ngõa sành sứ hình rồng uốn lượn, tạo nên vẻ trang nghiêm, uy nghi. Không gian nội thất được thiết trí theo lối “tiền Phật hậu Linh” truyền thống. Phía sau bàn thờ Phật là ba án thờ chính. Gian giữa thờ đức từ Cung nhân Trần Thị Nghiêm; hai gian tả hữu thờ đức ông Phù Mỹ Công, đức bà Định Mỹ Công chúa, Đình hầu Hường Ninh, Tá Quốc khanh Ưng Mão và những người thân trong phủ đã khuất. Cách bài trí thờ cúng theo trình tự từ ngoài vào trong gồm: Án thờ (hương án), bàn thờ và khám thờ đều được làm từ gỗ quý, chạm khắc tinh xảo, tạo nên không gian thờ tự trang trọng và linh thiêng.

Ngoài giá trị kiến trúc và tâm linh, phủ Phù Mỹ Công còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm như: gia phả, đồng sách (sắc phong bằng đồng), thể sách (sắc phong trên lụa), bằng cấp... Đây là những tư liệu Hán Nôm độc bản, không chỉ có giá trị văn hóa và nghệ thuật thời Nguyễn, mà còn phản ánh sinh động thể loại văn bản hành chính của triều đình. Những bảo vật ấy đã góp phần gìn giữ truyền thống thờ tự suốt hơn một thế kỷ, là niềm tự hào và là di sản quý báu của dòng tộc.

Bản thể sách của vua Bảo Đại truy phong tước vị Phù Mỹ Công


3. Gánh hát Ông Tá Heo: Dấu ấn không phai

Những năm đầu thế kỷ XX, phủ Phù Mỹ Công nổi danh với gánh hát tuồng truyền thống mang tên Ông Tá Heo. Tên gọi này bắt nguồn từ nghệ danh của chủ gánh - Công tôn Ưng Mão, người được triều đình tập tước Tá Quốc Khanh, nên còn được gọi thân mật là Tá Heo. Điều đặc biệt và thú vị là gánh hát Ông Tá Heo không chỉ đơn thuần là một đơn vị nghệ thuật mà còn là một gánh hát gia đình thuộc dòng dõi hoàng tộc triều Nguyễn, với các đào kép, ca nương, nhạc công chính đều là con, cháu, dâu, rể trong cùng một nhà9. Rạp hát được dựng ngay trong khuôn viên phủ Phù Mỹ Công tạo nên một không gian sinh hoạt văn hóa nghệ thuật độc đáo tại Kinh đô Huế.

Chân dung Tá Quốc khanh Ưng Mão


Cơ cấu tổ chức của gánh hát được phân công rõ ràng, với Tá Quốc Khanh Ưng Mão làm chủ gánh. Các con trai của ông đảm nhận những vai trò chuyên môn trong đoàn: Bửu Soạn (mụ10 Hai) đánh trống, Bửu Thực (mụ Nghĩa) chuyên đóng vai lão đồng thời đánh đàn độc huyền, Bửu Nguyên (mụ Trung) đảm nhận vai kép và Bửu Bính (mụ Lem) chuyên đóng các vai nịnh, bông lơn. Về phía các con gái, Công Tằng Tôn Nữ Chữ (mụ Cả) phụ trách bán vé, còn Công Tằng Tôn Nữ Bạch Liên (mụ Roi) chuyên đảm nhận các vai đào. Các dâu trong gia đình như cô Cháu (vợ mụ Lem) và cô Ngô Thị Liễu11 (vợ mụ Trung) cũng tham gia diễn xuất vai đào, trong khi các rể như Trợ Cáo (chồng cô Cả) và cháu rể La Cháu12 góp mặt trong nhiều vai diễn khác nhau.

Để nâng cao chất lượng nghệ thuật và đa dạng hóa phong cách biểu diễn, ông Tá Heo còn mời những thầy dạy nghề tuồng danh tiếng và các nghệ sĩ nổi danh tham gia gánh hát. Trong đó, nghệ nhân Cao Văn Nậy (tức Lớp Nậy) được mời làm thầy dạy tuồng, còn các diễn viên như cô Cúc và cô Thông Phương được biết đến với những vai đào xuất sắc. Đặc biệt, cô Cúc nổi tiếng với vai diễn Nguyệt Cô hóa cáo13, góp phần làm phong phú thêm đời sống nghệ thuật của gánh hát.

Về hoạt động biểu diễn, gánh hát Ông Tá Heo không chỉ trình diễn tại rạp riêng trong phủ Phù Mỹ Công mà còn thường xuyên được mời biểu diễn trong hoàng cung vào các dịp khánh tiết trọng đại. Bên cạnh đó, gánh hát còn phục vụ tại phủ đệ, tư dinh của các hoàng thân quốc thích và quan lại, tạo nên mối quan hệ gắn bó mật thiết với giới quý tộc quyền quý. Ngoài các buổi biểu diễn trong thành phố Huế, gánh hát Ông Tá Heo còn thường xuyên tổ chức các chuyến lưu diễn đến các làng xã phụ cận, cũng như mở rộng hoạt động ra các tỉnh miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị… và thậm chí xa hơn tới Hà Nội. Qua những chuyến lưu diễn này, gánh hát không chỉ giới thiệu, lan tỏa nghệ thuật tuồng, Ca Huế mà còn góp phần quảng bá văn hóa cung đình và truyền thống nghệ thuật dân gian đến nhiều vùng miền khác nhau.

Chân dung bà Bạch Liên

Suốt hơn 30 năm hoạt động, từ năm 1910 đến 1945, gánh hát Ông Tá Heo đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người mộ điệu nhờ tài năng nghệ thuật tuồng và Ca Huế đặc sắc. Nhiều vở tuồng tiêu biểu của đoàn như “Mã Long Mã Phụng”, “Xuân Đào lóc thịt” (còn gọi là Giác Sanh duyên) và “Tam nữ đồ vương” (tên khác là Ngọn lửa Hồng Sơn), Phụng Nghi Đình được xem là những tác phẩm xuất sắc, thu hút đông đảo khán giả. Các diễn viên trong gánh hát cũng tạo được tiếng vang lớn: Mụ Công Tằng Tôn Nữ Bạch Liên nổi bật với vai Xuân Hương; cô Ngô Thị Liễu chuyên đảm nhận các vai đào chiến; mụ Bửu Soạn là nghệ nhân đánh trống điêu luyện; còn Bửu Nghĩa nổi tiếng với tài đánh đàn độc huyền làm say đắm lòng người. Đặc biệt, Công Tằng Tôn Nữ Bạch Liên (1908 - 1983), cô con gái út của ông Tá Heo, được báo giới thời bấy giờ ca ngợi là “ngôi sao sáng trong nghề hát bội” với tài năng và nhan sắc vẹn toàn. Từ khi còn nhỏ, bà Bạch Liên đã nổi danh tại đất Thần kinh và năm 16 tuổi, bà theo cha vào Duyệt Thị Đường trình diễn cho nhà vua, hoàng gia và quan lại ba miền trong lễ Tứ tuần đại khánh (lễ mừng thọ 40 tuổi) của vua Khải Định năm 1924. Từ đó, danh tiếng của bà lan rộng khắp cả nước. Bà Bạch Liên sở hữu khả năng diễn nhiều vai đa dạng, từ bi kịch, hài kịch đến phản diện, đều để lại ấn tượng sâu sắc. Bên cạnh đó, bà còn trình diễn nhiều bài bản Ca Huế đặc sắc, đồng thời có tài trong việc bình, ngâm và kể chuyện Kiều. Trong một chuyến lưu diễn tại rạp Quảng Lạc14 (Hà Nội) vào năm 1929, Công Tằng Tôn Nữ Bạch Liên đã được khán giả vùng đất Thăng Long - Hà Nội ngàn năm văn hiến đón nhận nồng nhiệt.

Một ấn phẩm mang tựa đề “Tôn Nữ Bạch Liên Bắc du kỷ niệm” do Hội Quảng Lạc xuất bản năm 1929 đã ghi lại sự kiện này với nội dung như sau: “Hồi Tứ tuần, em đã ra hát ngự được rồi. Tôn Nữ Bạch Liên lúc nhỏ đã nổi danh tài sắc ở chốn đế đô. Cái thanh danh ấy, các vị quan thân ngoài Bắc vào dự lễ Tứ tuần, khi trở ra, đã mang theo ra đây. Vì vậy khi nghe rạp Quảng Lạc sắp đón Tôn Nữ qua chơi Hà Nội, bà con yêu thích hát bội đã có sẵn hy vọng được mắt thấy tai nghe một ‘Ngôi sao sáng trong nghề hát bội’. Sau khi triều Nguyễn cáo chung vào tháng 8 năm 1945, gánh hát Ông Tá Heo cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong thời gian ngắn, đoàn buộc phải tan rã do thiếu kinh phí duy trì hoạt động và không thể chi trả thù lao xứng đáng cho các nghệ sĩ tài năng. Không lâu sau đó, bà Công Tằng Tôn Nữ Bạch Liên quyết định giã từ sân khấu, lui về cửa Phật, xuất gia tu hành tại chùa Phước Huệ ở làng Vỹ Dạ. Cũng vì thế mà tên tuổi và sự nghiệp văn học nghệ thuật của bà đến nay ít người biết đến.

Là một gánh hát gia đình hoàng tộc, các thành viên trong đoàn không chỉ đảm nhận các vai đào, kép mà còn kiêm luôn nhạc công, tạo nên dấu ấn đặc biệt trong giai đoạn hát tuồng phục hồi sôi nổi dưới triều vua Khải Định và Bảo Đại. Bên cạnh vai trò biểu diễn tuồng cổ, gánh hát Ông Tá Heo còn góp phần quan trọng trong việc gìn giữ và quảng bá nghệ thuật Ca Huế đến nhiều vùng miền trong cả nước. Sự tồn tại và hoạt động của gánh hát cũng phần nào phản ánh bối cảnh xã hội đương thời, khi các gia đình hoàng tộc triều Nguyễn không còn chủ yếu sống dựa vào bổng lộc triều đình, mà buộc phải chủ động mưu sinh, tự tìm kiếm nghề nghiệp để nuôi sống bản thân và gia đình.

4. Thay lời kết

Phủ Phù Mỹ Công cùng gánh hát Ông Tá Heo vang bóng một thời không chỉ là di sản kiến trúc và nghệ thuật của một dòng họ hoàng tộc, mà còn là minh chứng sống động cho sự giao thoa tinh tế giữa văn hóa cung đình và dân gian trên mảnh đất Cố đô. Qua những khảo cứu và phân tích, có thể thấy phủ Phù Mỹ không chỉ là trung tâm sinh hoạt tinh thần, mà còn là cái nôi nuôi dưỡng và lan tỏa nghệ thuật tuồng cổ. Sự thịnh vượng kéo dài của gánh hát Ông Tá Heo không chỉ phản ánh sinh động quá trình phục hưng của nghệ thuật tuồng và Ca Huế đương thời, mà còn góp phần hình thành một không gian nghệ thuật độc đáo, thu hút đông đảo quan khách và giới văn nghệ sĩ. Chính sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa hình thức biểu diễn cung đình và tinh thần dân gian trong gánh hát đã tạo nên một bản sắc văn hóa riêng có của vùng đất Thần Kinh, đồng thời góp phần gìn giữ, phát huy và đưa nghệ thuật truyền thống Huế lan tỏa mạnh mẽ khắp ba miền đất nước.

T.V.D
(TCSH441/11-2025)

--------------------
1 Đức ông Phù Mỹ Quận công Miên Phú có các em ruột gồm: Hà Thanh Quận công Miên Tống (1822 - 1858), hoàng tử thứ 16; Định Mỹ Công chúa Đoan Thuận (1820 - 1854), hoàng nữ thứ 10; Cảm Đức Công chúa Thục Thận (1825 - 1907), hoàng nữ thứ 20; hoàng nữ thứ 19 mất sớm.
2 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 4, bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 805.
3 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 6, bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr. 450.
4 Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện, tập 3, bản dịch của Viện Sử học, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 117.
5 Sau này, do viên tẩm của đức ông Phù Mỹ Quận công nằm trong khu vực quy hoạch giải tỏa để mở rộng đường Trưng Nữ Vương, con cháu đã cải táng và di dời về an táng tại Nghĩa trang Nhân dân phía Nam thành phố Huế.
6 Ông còn có tên gọi khác là Ưng Hòa, là con trai trưởng của Đình hầu Hường Ninh.
7 Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, Châu bản Bảo Đại, tập 29, tờ 385.
8 Quốc sử quán triều Nguyễn (2006), Đại Nam liệt truyện, tập 3, Sđd, tr. 117.
9 Tôn Thất Bình (1993), Tuồng Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 103.
10 Là cách gọi xưng hô của con cháu hậu duệ các ông hoàng, bà chúa triều Nguyễn, không kể trẻ, già, nam, nữ.
11 Ngô Thị Liễu (1908 - 1984), nguyên Giám đốc Nhà hát Tuồng Trung ương, là một trong những nghệ sĩ tiêu biểu của nghệ thuật tuồng Việt Nam. Năm 1983, bà được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân trong đợt đầu tiên.
12 La Cháu (1912 - 2011) là một nghệ sĩ tuồng cung đình Huế nổi tiếng, có nhiều đóng góp cho nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Năm 1997, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú.
13 Tôn Thất Bình (1995), Các gánh tuồng xưa ở Huế, báo Thừa Thiên Huế, số 648 (ra ngày 12/10/1995), tr. 3.
14 Rạp Quảng Lạc, thường gọi là Hội Quảng Lạc, được thành lập năm 1916 tại số 8 phố Géraud (nay là phố Tạ Hiện), Hà Nội. Chủ tịch Hội đồng quản trị lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Long.

 

Các bài đã đăng