Lễ hội
Thú chơi dân gian Tết Huế
15:18 | 28/01/2011
NGUYỄN VĂN UÔNGTết nông thôn Huế thực sự đến từ chiều 30, khi bữa cơm cúng dọn từ bàn thờ bưng trải ra mâm, cả nhà quây quần trên chiếu phản trong khi bên ngoài trời chuyển màu dần sang tối. Đó là bữa cơm cúng mời tổ tiên và Táo quân, Thổ địa trở về nhà ăn Tết.
Thú chơi dân gian Tết Huế
Hội bài chòi - Ảnh: lehoi.cinet.vn

Những ngày giáp Tết công việc đồng áng bề bộn, có nhiều nhà tuy đã dựng con nêu và tiễn đưa ông Táo về trời từ ngày 23 tháng Chạp, nhưng không khí Xuân chỉ thực sự hiện diện trong mỗi gia đình từ chiều nay, sau bữa cơm chiều thịnh soạn, bàn thờ hương chong, đèn rạng, cả nhà tất bật chuẩn bị cỗ cúng giao thừa đón chào năm mới.

Sáng mồng một mở đầu năm mới, mỗi gia đình chọn người tuổi tốt xuống giường đạp đất đầu năm. Ngoài những nghi lễ ngày Tết gia đình thường bắt đầu từ mỗi buổi sáng gồm cúng bái tổ tiên, mừng tuổi cha mẹ, người thân, thăm viếng họ hàng, xóm giềng, chúc mừng con cháu,… người dân nông thôn còn dành nhiều thời gian tham gia nhiều trò chơi dân dã mua vui, cầu mong vận may, điều tốt đẹp cho cả năm.

Trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin giới thiệu một vài thú chơi dân gian Tết Huế cách đây chừng 50 - 60 năm trước.

1. Chơi bài tới

Bài tới thoát thai từ cỗ bài lá tổ tôm gồm ba pho Văn, Vạn, Sách, mỗi pho 10 quân bài. Đánh tổ tôm, đánh chắn, đánh tài bàn đều sử dụng cỗ bài lá tổ tôm nhưng khác nhau về cách chơi. Đánh tổ tôm rất khó, chỉ dành cho các cụ thâm nho. Đánh chắn, tài bàn tuy qui luật ít nghiêm ngặt hơn nhưng giới bình dân khó lĩnh hội, nhất là phụ nữ và lớp thanh niên nông thôn. Ca dao xưa đã có câu về đánh tổ tôm như là một cách thể hiện trình độ và cái oai phong của bậc kẻ sĩ nho gia:

Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống chè mạn hảo xem Nôm Thúy Kiều.

Bài tới là một phát kiến sáng tạo từ các quân bài tổ tôm, được cách điệu bằng những hình ảnh thuộc ba hệ thống tương ứng ba pho của tổ tôm. Chơi bài tới không rườm rà, dễ tập, phù hợp điều kiện nông thôn nông nghiệp, đáp ứng được nhu cầu giải trí bình dân nên phổ biến rộng rãi. Tên gọi các quân bài tới căn bản dựa vào thứ tự các quân bài tổ tôm nhưng chỉ gọi dân dã nôm na không gọi theo thứ tự bằng chữ Hán như nhị văn, tam vạn, ngũ sách, cửu sách…, mà là trường hai, quăng, dày, gối…

Bản sau đây đối chiếu 30 quân bài của tổ tôm và bài tới:

Tên con bài/ Pho Pho Văn Pho Vạn Pho Sách
Nhất Bạch tuyết Trò Nọc đượng
Nhị Trường hai Đấu Nghèo
Tam Trường ba Quăng
Tứ Voi Cẳng (Hương) Dóng
Ngũ Rốn Ngủ Dày
Lục Sáu tiền Chuôm (Xơ) Sáu nút (Sáu hột)
Thất Liễu Dọn Sưa
Bát Tám tiền Bồng Tám dây (Tám hột)
Cửu Xe Thầy Gối
Ba con cặp yêu Ầm Tử Mỏ


Bộ bài tới được vận dụng vào nhiều cách chơi khác nhau. Chơi bài tới là cách phổ biến nhất ở vùng nông thôn Trị Thiên mỗi dịp tết đến, xuân về.

Một hội bài tới dùng 60 quân bài, chia làm hai phe, mỗi phe 30 quân. Con bài tới có hình chữ nhật đứng, cạnh đáy chừng hơn phân rưỡi, chiều cao khoảng 5-6 phân. Mặt trước là hình con bài, mặt sau đều một màu xanh hoặc đỏ, đỏ cam. Lá bài tới in bằng bản khắc mộc được cho là tốt khi giấy in bài cứng vừa phải, màu bài phía sau đều nhau, không có dấu dễ lộ bài, mặt trước con bài in rõ nét, bộ bài chơi nhiều lần được xoa xáo trộn trên chiếu không bung góc, không nhàu, khộng đỗ xơ. Khoảng giữa thế kỷ 20, khi tôi còn là thiếu niên, đi học về phụ cô tôi bán tạp hóa ở chợ Đông Ba, những tháng cận tết, nhận tranh ảnh thờ của người làng Sình hay giấy tiền vàng mã của thím Hoài, một người Tàu ở đường Gia Hội, gần chùa Ông, để bán, thường thấy có thêm các bộ bài tới. Các quân bài tới đủ 3 pho. Pho Văn tượng hình bằng những vòng tròn như bánh xe và nửa đồng tiền đồng. Pho Vạn vẽ hình người bằng những nét kẽ gần như trường phái tượng trưng ngày nay. Pho Sách vẽ các nút hình tròn nhỏ liên kết nhau, giữa các vòng tròn có một chấm đen. Phía trên con bài đều có hàng chữ Nho ghi tên con bài như của tổ tôm (tứ văn, thất văn, thất vạn, ngũ sách…), sau này được thay thế bằng chữ quốc ngữ ghi tên con bài theo tên của bài tới (voi, liễu, nhọn, dày…). Người chơi bài tới không mấy quan tâm đến các chữ này. Họ chỉ nhận diện con bài qua hình vẽ. Khó nhất là trong pho vạn, hình nào cũng na ná như nhau, chỉ có vài tiểu tiết nhỏ để phân biệt. Người mới chơi khó phân biệt con cẳng, con ngủ, con đấu, con chuôm… nếu không chú ý con cẳng mặt nghiêng, phía dưới có mấy đường sóng, con ngủ trọc đầu, con đấu như con ngủ nhưng đỉnh đầu đội một ô như cái đấu, con chuôm thì phía trên đầu có một mảng gạch chéo như chuôm…

Một sòng bài tới phải có đủ 6 người chơi. Mỗi phe 3 người ngồi một bên chiếu, giữa hai phe là ngọn đèn dầu làm ranh giới. Hai phe cách biệt nhau và giữ bí mật các quân bài mỗi người cầm trên tay. Trong cùng một phe, ba người có thể nhìn bài nhau để bàn luận con bài đánh ra nhưng không được trao đổi bài cho nhau. Trước một ván bài mỗi phe lật sấp 30 con bài đều trên chiếu, xoa xáo trộn để mỗi người bốc ngẫu nhiên 10 con bài cho tay mình. Người vừa tới ván trước ra một con bài đi chợ cho phe bên kia. Ở phe kia, người có giữ con bài đó ra tiếp một con bài khác trả lại cho phe đối địch. Cả hai con bài đều được vất ngửa xuống chiếu để đối phương kiểm tra. Cứ thế giữa hai phe lần lược nhận bài, ra bài. Người nào nhẹ tay đi hết 4 cặp bài sớm, còn hai con cuối thì chực. Nếu phe kia đi một con bài trúng với một trong hai con bài chực, thì được tới. Những con bài đã đi đều được lật ngửa và giữ ở chiếu của mỗi phe, không lẫn lộn với phe bên kia.

Cách chung tiền thắng cho người tới bài tùy thuộc lệ giao trước khi chơi. Lệ được dùng nhiều nhất là trước khi vào một hội, cả 6 tay chơi đều chung tiền để dưới đế đèn. Hễ ai tới thì được ăn một ván lấy một phần tiền chung. Khi người tới bài ăn hết 6 phần tiền chung thì hết hội, phải chung tiền để đánh hội khác. Có những hội bài sặc mùi ăn thua thì người tới lấy hết tiền chung và các tay chơi phải đậu lại hội mới. Có sòng bài theo lệ chia làm hai phe, người tới bài được ba tay bài phe kia chung tiền. Cách chung tiền kiểu này buộc các tay bài cùng phe phải liên kết tính toán để phe mình được tới, dù chỉ một người được chung thì hai người kia cũng khỏi phải mất tiền. Chung tiền theo phe khiến sòng bài tới hấp dẫn hơn nhưng cũng dễ sinh ra gian dối khi các tay bài cùng phe lén đổi bài cho nhau để dành tới về phe mình.

Trong bộ bài tới có 3 con cặp yêu của ba pho không được chực. Đó là con ầm, con tử, con mỏ. Các con bài này đếu có kí hiệu màu đỏ nên được gọi là bài đỏ. Con ầm tô đỏ cả con bài. Con tử, con mỏ chỉ có một vòng tròn đỏ đóng phần trên hình vẽ. Người chơi bài tới thích bắt được các con bài này vì nó dễ đi nhưng không tính toán kỹ thì đôi khi bị đền. Đó là trường hợp một tay bài chỉ còn lại 4 con bài trên tay, trong đó có 2 con bài đỏ. Nếu phe bên kia đi trúng một con bài đỏ thì tay bài này đi trả con bài đỏ kia, trên tay còn hai con bài đen để chực. Nếu không may, phe kia đi trúng một con bài đen, thì tay bài này chỉ đi được một con bài đỏ và trên tay còn lại một con bài đỏ (trong 2 con chực cuối cùng) và thế nào phe đối phương cũng đi con bài đỏ ấy. Thế là tay bài ấy bị tới thối, không được ăn tiền còn phải phạt, chung tiền một suất theo lệ chung tiền cho tay bài phe bên kia phát con bài tới đó. Ván sau tay bài tới thối phải đi chợ cho sòng bài. Mà đã đi chợ thì cuối bài chỉ được chực một con, thiệt thòi một nửa so với các tay bài khác.

“Chẳng thong dong cũng ba ngày Tết”. Dù suốt năm vất vả đến mấy, ba ngày tết người dân nông thôn cũng cố tạo ra không khí no đủ thảnh thơi cho gia đình. Họ tin đó là điềm lành cho cả năm. Những ngày ấy trong nhà không thể không có sòng bài tới. Chiếc chiếu hoa mới dành cho ngày tết được trải ngay ngắn trên chiếc giường ở một góc nhà. Sáu người túm tụm xoa bài, tranh bắt bài, ra bài rôm rả bằng cả điệu bộ và ngôn ngữ thân mật. Tiếng cười dòn không ngớt vang lên khi có người tinh nghịch hô tên con bài một cách xỏ xiên. Khách ra vào chúc tết đôi khi cũng bị sòng bài tới lôi cuốn, ngồi chơi mãi không về. Sòng bài tới khác hẳn các lọai sòng bạc khác. Chủ nhà đã không có tiền xâu, lại còn bỏ tiền lựa mua bộ bài tốt, tốn thêm trầu chè, bánh mứt. Giới đàn ông thường ít thích chơi bài tới bằng phụ nữ. Có những chị mê chơi không chỉ ba ngày tết mà kéo dài nhiều ngày, suốt tháng, bỏ việc, thua tiền. Vì thế dân gian có vè bài tới như sau:

Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè bài tới/ Cơm chưa kịp xới/ Trầu chưa kịp têm/ Tôi đánh một đêm/ Thua ba tiền rưỡi/ Về nhà chồng chửi/ Thằng Móc, Thằng Quăng/ Đánh sao không ăn/ Mà thua lắm bấy/ Tôi lấy tiền cấy/ Cho đủ mười ngày/ Năm dày bảy sưa/ Cũng là nhịp kéo/ Chị em khéo léo/ Dễ mượn dễ vay/ Thân tôi ngày rày/ Dầm sương dãi nắng/ Chị em có mắng/ Tôi cũng ngồi đây/ Nó là năm dày/ Nó cũng a dua/ Ăn thì tôi lùa/ Thua thì tôi chịu.

Bài tới chỉ chơi trong nhà. Ngày tết, lễ hội, bộ bài tới còn được cải biên cách chơi để phục vụ nhiều người nơi công cộng. Đó là bài chòi, bài thai


2. Hội bài chòi

Bài chòi, trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ đề cập đến một thú vui chơi cờ bạc dân gian phổ biến, đậm nét văn hóa, khác với nghệ thuật bài chòi mang tính diễn xướng sân khấu, phát triển thành tuồng tích như hát bộ, cải lương ở các tỉnh Nam Trung bộ Bình Định, Phú Yên, nơi sản sinh ra nghệ thuật tuồng cổ hát bộ, chèo cổ đưa linh, mà có nhiều nhà nghiên cứu, sưu tầm đã giới thiệu.

Ở vùng Trị Thiên, bài chòi thuần là một trò chơi cờ bạc trong các dịp hội hè, lễ tết. Tuy có yếu tố diễn xướng dân gian thu hút quần chúng, nhưng người tham gia các cuộc chơi bài chòi chỉ xem đó là phụ. Cái chính khi tham gia bước lên các chòi bài đầu năm, người chơi chỉ để mua vui, đoán hên xui cho tháng ngày năm tới. Có những người mê bài chòi đến nỗi giữ chòi suốt từ sáng tinh mơ, khi hội bài chòi bắt đầu hô bài, đến hết ngày, khi hội bài chòi nghỉ đêm. Người nhà phải mang cơm nước ba bữa đến tận chòi phục vụ. Ca dao đã có những câu chế diễu được đưa vào thai bài chòi như sau:

Mẹ ham đi đánh bài chòi
Để con khát sữa khóc lòi rốn ra


Bài chòi dùng 30 con bài của bộ bài tới. Nhưng để tổ chức được một hội bài chòi, ít nhất phải có 90 con bài. 30 phát cho người chơi, 30 để nhà cái hô, 30 con chuẩn bị khi thay ván bài.

Gọi là bài chòi vì người chơi bài không ngồi quây quần trên một chiếc chiếu. Mỗi người chơi bài chòi được bố trí một chòi riệng, cách biệt hẳn với các chòi khác để giữ bí mật con bài.

Chòi được thiết kế như một nhà sàng nhỏ, cách mặt đất cao hơn thước, thước rưỡi. Chòi vuông vắn mỗi cạnh chừng thước rưỡi, vừa đủ kê một chiếc ghế dài cho hai người ngồi. Mái chòi lợp tranh, vách chòi đan phên tre hay lợp gót. Phía trước chòi bỏ trống, treo một bức màn làm cửa. Một cái thang nhỏ bắt lên để người chơi bước lên chòi phía trước cửa chòi. Một chòi là một người chơi nhưng thường thường người chơi rủ thêm một hai người khác nữa cùng lên ngồi với mình.

Một hội bài chòi có 10 hoặc 11 chòi con xếp thành hai hàng song song, nhìn mặt vào nhau qua một vuông sân ở giữa. Cuối hai dãy chòi con là cái chòi lớn hơn, trang trí đẹp hơn, quay mặt hướng về hai dãy chòi con, dành cho chủ hội bài chòi, gọi là chòi cái.

Nếu hội bài chòi tổ chức 11 chòi con thì bộ bài tới được bổ sung thêm ba con bài dán giấy xanh, giấy đỏ, giấy vàng. Bộ bài tới tăng lên thành 33 con. Bắt đầu hội, 11 người chơi lên 11 chòi con, đậu cho chủ hội bài 11 xuất tiền vào hội. Người của hội bài cầm một ống bài có những thẻ tre gọt đẽo khá công phu dán hình các con bài, đi từng chòi con để người chơi rút ngẫu nhiên 3 thẻ bài cho một ván. Ở chòi cái, một ống bài lớn hơn treo quá tầm nhìn của người hô bài. Các ống bài đều để ngược thẻ bài, giấu kín phần con bài trong ống, chỉ còn phần cán thẻ lộ ra khỏi ống bài để bốc.

 Khi mọi việc tổ chức cho một ván bài vừa xong, trống nổi lên, phường bát âm hết tò te tí te, người hô bài (ông hiệu) dạo đầu vài câu hát bài chòi rồi bắt đầu rút từng thẻ bài một, hô lớn cho cả hội bài cùng nghe. Ở một chòi nào đó, phát lên 3 tiếng gõ vào chiếc mõ treo trước chòi cóc cóc cóc. Đó là âm thanh báo chòi đó đã được đi con bài vừa rao. Tuần tự các con bài trong chòi cái được hô lên, các chòi con có tiếng mõ đáp lại đã đi bài. Một lúc nào đó, bỗng một chòi con mõ dục liên hồi, báo đi hết ba con bài, đã tới. Người của hội bài đến tận chòi người tới bài, cầm 3 con bài lên trình ông hiệu kiểm tra lại và hô lớn cho cả hội cùng nghe. Kiểm tra không có gì trắc trở, người của hội bài mang tiền đến chung tận chòi tới kèm theo một cây cờ nheo đỏ cắm lên chòi. Người của hội bài thu lại tất cả các con bài trong 11 chòi, phân tiếp bộ bài mới, chơi ván tiếp theo.

Mỗi hội bài chòi có 11 người chơi nhưng chỉ đánh 10 ván (10 cờ). Một cờ dành cho ban tổ chức hội bài chòi. Như thế mỗi hội bài ít nhất có một người không được tới. Nhìn những lá cờ nheo đỏ cắm lên các chòi tới bài, người ngoài có thể thấy được kẻ đỏ, người đen. Có chòi 2-3 cờ, chòi không có cờ càng nhiều hơn. Khi đã tới đủ 10 cờ, hết hội, các chòi con thay người, chuẩn bị cho hội bài mới.

Bài chòi thường được tổ chức ở sân đình, sân chùa, sân chợ vào dịp tế tự, lễ tết. Thù lao cho người tổ chức hội bài chòi là một cờ dành ra trong 11 xuất tiền của người chơi bài. Số tiền này không nhiều so với công lao của gần mười người trong ban tổ chức, phường bát âm và trầu thuốc trà chè. Nhưng hình như không khí hào hứng của hội bài đầu năm lôi cuốn, ít ai nghĩ tới thù lao nhiều hay ít. Người trong ban tổ chức cũng là các chức sắc, bô lão đến tuổi nghỉ ngơi, tham gia hội bài là dịp mua vui, giải trí. Người chơi bài thử vận may rủi đầu năm chỉ ngồi chòi một hai hội, không tới lần nào thì mặt buồn rầu lo lắng vận xui cả năm, lẳng lặng vào chùa, vào đình đốt nhang cầu khấn. Người tới hai ba cờ thì mặt tươi như sáo, cười nói vui vẻ, xăm xăm đến chòi cái nhai miếng trầu, hút điếu thuốc, uống một ngụm trà, chào hỏi người hô bài xem như là sứ giả mang vận may đến cho gia đình cả năm. Vài người, trước khi ra về không quên gởi tặng ban tổ chức hội bài một hai ván thắng. Người mê bài chòi, nếu chậm chân không ra sớm để dành một chòi chờ khai hội đầu ngày mới thì xăm xe lui tới các chòi, hỏi han tìm chòi nào người chơi không giữ tiếp hội sau, xin lên ngồi một bên, xí phần thay thế.

Hội bài chòi ngày tết bắt đầu từ sáng một một đến ngày hạ nêu. Những ngày đầu tết, khách đông, ban tổ chức phải xoay xở tất bật để vừa tổ chức hội bài suôn sẻ vừa đáp ứng khách đến xem, nghe hát bài chòi, hò con bài thai. Đôi ba ngày thấm mệt, dù người hiệu thay đổi nhiều lần, vẫn tắc tiếng, khàn hơi. Khi ấy thì câu hát bài chòi mở hội ngắn đi, câu thai hò con bài ra cũng rút lại vài dòng, đôi khi giản tiện chỉ hô trống trơn tên con bài. Những ngày cuối, ngồi chòi chỉ còn là những người nghèo, người mê bài cạn tiền, lưng túi. Người tổ chức giảm dần háo hức nhưng không dừng hội bài được vì người chơi bài còn nhiều và lệ làng chưa cho phép. Tiền ván bài nhập hội ít đi, những người chơi bài thỏa thuận dành hai cờ cho ban tổ chức để đủ chi phí hội bài.

Buổi chiều làng hạ nêu thì hội bài chòi cũng có lễ cúng tổ tạ ơn. Các chòi tháo dỡ xong còn trơ lại sân đình, sân chùa xác xơ cây cỏ. Người người lần lượt ra về. Đêm mới buông mà trăng lưỡi liềm mỏng dính đã xế quá hàng tre là ngà xa ngoài bờ sông, nghiêng bóng cây bàng vừa nhú đầy lá xanh non phủ kín bãi hội bài chòi. Không khí tĩnh mịch trở lại chốn tôn nghiêm. Sương phả hơi lạnh đánh thức mầm sống trong những gốc cỏ bị bàn chân người chơi hội dày xéo, chuyển mình, vươn lên xóa nhòa dấu vết ngày qua để năm sau còn đón hội bài trở lại.

Có những lúc, những nơi, do điều kiện không dựng được các chòi, ban tổ chức chỉ bố trí từng ô ghế kín, cách biệt nhau. Bài chòi kiểu này gọi là bài ghế. Ở các khu phố có nhiều cư dân gốc Huế như Ấp Ánh Sáng, Khu phố Thái Phiên ở Đà Lạt, mỗi dịp tết thường có các hội bài ghế được tổ chức thu hút nhiều người đến chơi.

Nói đến hội bài chòi không thể không điểm qua vai trò ông hiệu hô bài trong ban tổ chức. Đó là những người ngôn ngữ trôi chảy, ăn nói có duyên, cách pha trò dí dỏm và nhất là tài ứng biến xuất khẩu thành thơ, xuôi tai, luôn vần, hợp cảnh. Mỗi hội thường có vài ba ông hiệu thay phiên nhau. Ông hiệu thuộc nhiều bài thai thì lời hò phong phú, đa dạng, tạo nhiều tình huống lôi cuốn người chơi. Đôi khi chỉ một câu hò thai, người chơi bài cứ ngỡ con bài trên tay mình tới. Nhưng không. Lại là con bài khác.

Còn duyên mua thị bán hồng/ Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ/ Gặm xơ hết lại gặm cùi/ Dành riêng mớ hột để lùi cho con

Câu thai này hiệu có thể hò cho con xơ, con 6 hột, con 8 hột, con 9 hột (gối). Gàn hơn có hiệu liều lĩnh bắt vào cả những con bài hột (pho sách), vì trong câu hò có tiếng mớ hột.

Có những bài thai dài cho một con bài, nhưng khi thích chí hiệu hò cả bài, khi mệt hiệu chỉ hò vài câu, thậm chí chỉ một câu như bài thai con bạch tuyết:

Hoa phi đào phi cúc

Sắc phi lục phi hồng/ Ong bay qua muốn đậu, bướm lượn vòng muốn bu/ Bốn mùa đông hạ xuân thu/ Khi búp khi nở khi xù khi tươi/ Chúa xuân ngó thấy mỉm cười/ Sắc hay vương vấn mấy người tài danh/ Có bông, có cuống, có cành/ Ở trong có nụ, bốn vành có tua/ Nhà dân cho chí nhà vua/ Ai ai có của cũng mua để dành/ Tử tôn do thử nhi sanh/ Bạch huê mỹ hiệu xin phành ra coi.

Có khi một con bài có nhiều thai, tùy cảnh, hiệu hò những thai thích hợp. Như bài thai con nghèo:

- Chắp tay chẳng với tới kèo/ Cha mẹ em nghèo chẳng cưới được em

- Cây khô tưới nước cũng khô/ Phận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo

- Buồn từ trong dạ buồn ra/ Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo.

Những thai chỉ để hò một con bài ít hấp dẫn vì người chơi nhiều, khi nghe vài tiếng đầu đã đoán ra. Cái hay của ông hiệu là có những câu hò mới hóc búa, hay những ứng khẩu dí dỏm, đa nghĩa để các tay bài suy nghĩ. Như bài hò con trò:

Đi đâu đeo xiểng mang hài/ Cử nhân không đặng, tú tài chẳng qua

Bài hò con tứ cẳng:

Một hai bậu chối rằng không/ Dấu chân ai đứng bờ sông hai người.
(Hai người thì mới có bốn cẳng. Có người lại đoán con trường hai)

Làng tôi có ông hiệu Kiểm Đài là thành công hơn cả. Tài của ông không những chỉ thuộc nhiều câu hò bài chòi, câu thai lá bài có sẵn. Những lúc cao hứng ông xuất những câu hò hóm hỉnh ứng với tình hình diễn ra ở ván bài, chọc ghẹo những phụ nữ xinh đẹp, nhất là hạng quá lứa chưa chồng hay góa chồng, lấy các vụ việc xảy ra trong thôn đưa vào câu hò thai với những biến tấu đa nghĩa dí dỏm.

Năm ấy lụt sớm, lúa gặt về bị bùn non bám nhiều vào hạt, phơi phóng vất vả, bụi bặm. Bà vợ hay than phiền, ông đã có hai câu chọc cười xoa dịu vợ. Ngày hội bài chòi, có o con gái đẹp chưa chồng trong làng, là nhân vật so sánh trong câu thơ của ông, vào chơi bài chòi. Ông đã ứng khẩu tiếp thêm hai câu thành câu hò thai bốn câu giới thiệu con bài ông vừa bốc:

Mạ mi ơi đừng có than lúa lắm bụi, nhiều bùn/ Phơi khô quạt sạch đẹp như o Lùn nhà bác trùm Liên/ Đừng nhìn láu liếng xỏ xiên/ Mà lộn con xe sáu bánh với con sáu tiền o ơi.

Kết quả hiệu công bố là con 6 tiền nhưng câu cuối ông kéo dài, nên có người giữ con xe đã một phen mừng hụt con bài của mình. Ông còn dùng cụm từ láu liếng xỏ xiên để ghẹo o Lùn đang chơi bài chòi. Cả hội bài có một trận cười dòn dã.

Làng tôi có hai món ăn dân dã rất ngon là củ sắn trồng ở đất nhà chùa và củ nưa trồng ở đất ruộng phủ. Trong làng đã có câu hò ca ngợi: Bao giờ thống chế, lãnh binh/ Sắn chùa nưa phủ nghĩa mình đừng quên.

 Vừa lúc có mấy đôi trai gái thành phố về làng ăn tết ghé thăm chơi hội bài chòi, đứng ở góc sân đình nhìn vào. Ông tiếp thêm hai câu thành bài thai bốn câu cho con tám tiền vừa bốc trúng:

Bao giờ thống chế, lãnh binh/ Sắn chùa nưa phủ nghĩa mình đừng quên/ Trai tài gái sắc khắp miền/ Nghe con tiền tám thì liền ghé chơi

Mấy cô cậu được gãi đúng thói kiêu hãnh, nán lại chờ hội bài mới ngồi vài chòi thử vận đầu xuân.

Quê tôi là vùng sông nước, người dân có nghề phụ đánh cá ban đêm để cải thiện. Cách đánh cá dễ nhất là đặt lờ. Ngày ấy mới đình chiến, phong trào bình dân học vụ chống nạn mù chữ được phát động rầm rộ. Dân làng học mấy chữ cái tờ, mờ, lờ, rờ, cờ… nảy sinh nhiều chuyện cười dí dỏm. Có ông cán bộ phụ trách bình dân học vụ xã vào chơi bài chòi. Ông cán bộ này hay đi đêm, nhiều tai tiếng, dân không ưa mấy, nhưng cũng là tay đặt lờ có hạng. Thai ông hiệu hô con bài vừa bốc như sau:

Bà con đừng nghĩ ông già/ Ông còn kham nỗi bốn, ba cái lờ/ Săm se chỉ một con cờ/ Có hai bánh bự bây chừ đang ở tay ai?

Mới hò câu đầu, các tay bài đóan là con bài hình người nào đó trong pho vạn (ông già). Qua câu thứ hai, người chơi nghĩ là con liễu, bạch tuyết (cái lờ). Câu thứ ba “con cờ” người chơi lại nghĩ chắc chắn là con nọc đượng. Nhưng khi hết câu cuối, ông trình con trường hai (hai bánh) thì ai cũng phải khen ông hò hay và ứng biến giỏi. Câu hò thai tự biên tự diễn của ông sau đó trở thành chuyện tiếu lâm của các lớp bình dân học vụ trong thôn.

Bài chòi nay đã mai một. Ngày tết, ngày hội thường tổ chức diễn xướng sân khấu hóa nhiều lọai hình trò chơi mới chưa bắt được nhịp tâm tình người dân nông thôn, nhất là lớp người lớn tuổi. Nông thôn nay cũng đã đổi khác. Cuộc sống cư dân nông nghiệp gắn bó con trâu cái cày với nhiều lễ hội cầu mùa, tạ ơn… dần dần bị thay thế. Đường thôn, sân đình điện đèn thắp sáng mỗi dịp vào xuân. Tiếng nhạc trẻ xập xình trong quán hàng, trong lễ hội. Mấy chục năm nay, làng tôi không mở được hội bài chòi. Trai tráng quay vào xập xám, tiến lên… nhiều hơn ngồi xoa bài tới. Tôi nhớ đến những ông hiệu như ông Kiểm Đài và những người mê ngồi bài chòi ngày trước mà cám cảnh câu thơ của Vũ Đình Liên: Những người muôn năm cũ/ Hồn ở đâu bây giờ.


3. Đánh bài thai

Tôi thiết nghĩ cần phân biệt thú chơi đánh bài thai và các câu thai hò trong các ván bài chòi để trình làng con bài mới ra, là khác nhau.

Đánh bài thai tôi đề cập trong bài viết sau đây là một lọai chơi cờ bạc như bài vụ, xóc nhứt lục (xúc xắc), sau này có thêm bầu cua, tài xỉu thường thấy trong những ngày tết ở xó chợ, góc đình. Người chủ cái hò bài thai mượn bộ bài tới làm phương tiện tổ chức cờ bạc như người ta dùng con vụ, con xúc xắc, con bầu cua mà thôi.

Cũng như người làm cái bài vụ, bầu cua, nhứt lục, người hò bài thai chọn một chỗ vừa ý trong sân đình, cổng chùa, trải ra một tấm vải dán hình nhiều con bài của bộ bài tới làm nơi mở sòng. Số con bài chọn để hò thai cho người đặt thường là 18. Có người chọn cả 20-25 con. Nếu bộ bài chọn 18 con thì khi người chơi đoán trúng, chủ thai chung tiền gấp 12 lần tiền đặt. Nếu chọn nhiều con hơn, thì chung tiền cũng gấp cao hơn, nhưng tính lại nếu người chơi đặt cược hết các con bài, thai ra trúng chỉ 1 con, tiền chung thu về chỉ được chừng 2/3 số tiền đặt cược.

Ngày khai trương, chủ thai trải tấm vải dán hình các con bài cùng cặp chén dĩa, bộ bài còn mới dưới góc cổng chùa có bóng cây sanh tỏa mát, lễ mễ bày ra bình bông, mâm quả, khay trầu, cút rượu lên hương cầu khấn. Sau vài lần rót rượu vội vàng, hương chưa cháy đến nửa cây, người đi lễ sớm đã tấp nập, chủ thai vái tạ, thu dọn lễ vật đặt hết lên gốc cây sanh, nơi đó đã có vô số bình vôi bể, ông táo đất nứt rạn... người dân trong làng mới tống tiễn ngày ông táo về trời.

Trò chơi bắt đầu. Tiếng hò được cất lên, bà chủ cái đặt chiếc dĩa có con bài úp kín cái chén ra trước mặt, trong tấm vải làm sòng bài thai. Mấy người sà vào ngồi chồm hổm quay quanh lắng nghe lời thai, ngẫm nghĩ, bàn bạc với nhau tìm con bài cần đánh.

Sáng sớm đầu xuân, ai cũng cố tạo cho mình tâm trạng thoải mái, vui vẻ. Vài đồng tiền mới đặt xuống gọn gàng trên những con bài. Chủ cái thấy vừa ăn, mau mắn khui bài. Các bài hò nhẹ nhàng, con bài cái gần gũi câu hò thai nên có người trúng. Khi người chơi chen đầy kín chỗ sòng bài, chủ cái thay đổi những bài hò dài, hiểm hóc, đánh đố hơn để có nhiều chi tiết, làm cho người chơi liên hệ đến nhiều con bài, khó chọn ra được con bài trúng. Đôi khi người hò sử dụng câu thai bài chòi, sửa đổi vài từ kết hợp thành một bài hò thai, làm người đánh không biết đâu mà lần. Thế mà, khi khui bài, chủ cái còn có thể giải thích nhiều cách khiên cưỡng, tùy tiện để ra con bài cái. Cho nên, bài hò thai chỉ là cho có. Cái cần là trong 18 con bài, người chơi phải đoán được con bài chủ cái dấu trong chén là con bài gì?

Trời gần đứng bóng, người chơi khá đông, sau mấy câu hò đã khá dài, chủ cái lấy một câu hát trong dân ca kháng chiến phổ biến ở quê tôi trong thời còn chiến tranh để kết thúc bài hò

Đèo Tư Hiền băng qua cầu Đại Hải/ Đây con đường gập ghềnh, em gắng mà băng/ Em đi mau kẻo trời tối không trăng/ Khéo mà quàng dây vấp đá, đó lại trách rằng anh đây không dặn dò.

Người chơi nghĩ rằng hò nhiều bài nhưng bài này hơi lạ, đưa vào sau cùng thì còn bài dấu phải tìm trong đọan hò này. Quàng dây là con tám dây, do dày dây là con dày, Tư (bốn) hiền, đi (bằng chân): con tứ cẳng, chàng vẽ vời cho nàng như dạy học trò là con trò. Trước đây đã có người hò thai bài này ngụy biện cho khui ra con ầm rồi giải “Vấp đá ngã té cái ầm. Là con ầm”. Bây giờ, khui bài ra, những người chơi đều thua cả. Chủ cái chìa ra con ngủ rồi bảo: “Trời tối không trăng, buồn ngủ mới quàng dây, vấp đá”. Đúng là kiểu giải thích chỉ có trong đánh bài thai!

Cũng thai hò con bạch tuyết trong bài chòi, trong bài thai, thêm bớt vài ý, chủ cái có thể đưa ra nhiều cách giải thích cho con bài cái: Con trò, con thầy, thái tử (người tài danh), con gióng (bốn vành có tua), con nghèo,con dày, con sưa, con 6 hột, con 8 dây, con gối...(ở trong có hột), con liễu (không phải đào, không phải cúc thì là liễu), con ầm, con voi (Sắc không lục, không hồng thì đỏ như ầm, thì đen như voi)...và nhiều, nhiều nữa.

Bài thai, bài vụ, xóc xúc xắc căn bản là giống nhau trong cách chơi. Người chơi phải đóan cho được kết quả trong chén để chọn con bài đặt cựơc. Nhưng bài vụ, xóc xúc xắc, nhà cái không biết trước được kết quả ván bài. Khi dở chén ra, kết quả như thế nào, chủ cái phải chung cho người đặt trúng theo lệ đã giao. Hò bài thai có khác. Khi để con bài cái vào chén dĩa để hò, người chủ cái đã biết trước. Vì thế, nếu cân bằng trên ván thua nhiều, chủ cái chần chừ không muốn khui chén, dù khách chơi thúc dục nhiều lần. Gặp trường hợp ấy, khách chơi đóan biết trong ván đã có người trúng, càng xuống thêm tiền. Chủ cái chỉ còn nước chạy làng. Một cảnh xâu xé, chụp dựt xảy ra làm nát tan cả hội bài thai. Đôi người mất tiền, nóng tính còn hành hung người chủ cái hò bài, bắt đền tiền thua bạc.

Cảnh ấy diễn ra ở sòng bài thai làng tôi năm ấy vào sáng ngày thứ ba đầu xuân. Hai ngày trước, chủ thai kiếm được chút ít. Mở cái ngày hôm ấy gặp xui, từ sáng, nhiều người trúng quá. Ván này, chủ cái xem qua tiền người thua trên sòng không đủ chung con bài trúng. Chủ sòng bài thai nán lại lâu hơn thì người đặt tiền xuống càng nhiều. Cuối cùng Mụ Thơm (Tên chủ cái bài thai) xin làng đi uống nước. Khách chơi không cho mụ ra, thế là có cảnh tranh nhau, ẩu đả giựt tiền trên sòng. Khổ cho mụ! Nhưng đó cũng là cách tháo chạy an toàn nhất.

Mụ Thơm là người hò bài thai hay nhất làng tôi, dân làng gọi tên mụ là Thơm hò. Tôi không biết mụ có chồng không nhưng chỉ thấy mụ có 2 đứa con trai súyt sóat tuổi ngang với tôi. Mụ làm nghề bài thai, bài vụ kiếm tiền nuôi con. Ngoài những ngày lễ tết, hội hè, mụ hò bài thai hay bài vụ mỗi chiều ở chợ quê. Những tháng mùa màng, ít người chơi, mụ qua Dinh kiếm sống. Khi ấy, hai thằng con trai đem gởi nhờ bà ngoại, ở cùng xóm với tôi. Đôi khi mấy tháng không thấy mụ về. Lần cuối tôi thấy mụ ở làng là dịp mụ dẫn về một người đàn ông lạ ra mắt gia đình rồi từ đó đi biệt, bỏ lại hai đứa con cho ngọai nuôi.

Yên ổn chừng dăm năm, cuộc sống hồi sinh chưa kịp bền gốc, bén rễ thì chiến tranh lại đổ về làng tôi lần nữa. Trai tráng và dân chúng phần vào lính, phần bỏ làng ra đi tránh bom đạn. Ngày tết không còn bài chòi, đu chùa, bài vụ, bài thai...Sân đình, sân chùa cỏ cao ngập cả lối vào. Hai cây sanh và hàng cây gạo, cây bàng, mù u trước đình, trước chùa um tùm cây lá, tỏa rễ phụ chắn cả lối đi. Sau một trận càn qui mô có cả đại pháo, máy bay B52 yểm trợ, làng tôi thành một bãi trắng đúng như kế họach “bạch hóa” của chiến dịch càn quét. Một thời gian khá dài, dân làng không còn một ai còn sống ở quê.

Tôi làm việc ở một vùng rất xa làng quê. Hai người con của mụ Thơm hò vào lính. Sau chiến tranh, người người lần lượt trở về quê. Một người con còn lại của mụ, sau mấy tháng học tập cải tạo trở về làng. Cuộc sống lại lần nữa được hồi sinh nhưng do con người thiển cận, hòan cảnh khó khăn, không lấy lại được dấu vết xưa. Sân đình, sân chùa trở thành sân phơi hợp tác xã. Nhà chùa, đình làng dùng như kho chứa. Tiếng hò dân dã tắt tị hẳn trong nhịp sống làng quê.

Mấy năm sau hòa bình, mụ Thơm hò, một thân một mình về sống với con ở làng. Mụ đã già lắm, mắt không còn thấy người đối diện, nhưng thường ngồi buồn, thầm thì hò bài thai nho nhỏ. Một lần tôi về quê ăn tết, gặp mụ, qua vài câu chuyện thăm hỏi, mụ hò cho tôi nghe những bài mụ còn nhớ. Không có dĩa bài, không có tấm vải trải rộng mấy con bài làm sòng, mụ vẫn hò say sưa. Hai tay mụ thỉnh thỏang nắm úp lấy nhau, che kín dưới vạt áo trước bụng. Tôi nhớ lại động tác mụ cầm con bài đang dú vào vạt áo dài trước bụng năm nào, mỗi lần cho một con bài vào dĩa cái trình ra sòng bài thai. Nghề hò bài thai không còn nuôi được mụ qua bát cơm nhưng chắc tâm hồn mụ còn sống được có lẽ là những câu bài thai ấy.

Thú chơi Tết dân gian ở nông thôn ngày trước không chỉ có các món ăn thua cờ bạc. Ngày Tết nông thôn Huế thể hiện nhiều nét văn hóa cổ truyền đậm đà hương vị ngày xuân. Phải về nông thôn mới sống trọn vẹn không khí của Tết Huế. Dù đi làm ăn đâu xa, người Huế chỉ cầu mong mỗi dịp xuân về được về quê hòa mình trong không khí trang nghiêm ngày Tết. Đó là tâm lý chung trong nếp văn hóa Việt Nam ngàn đời.

N.V.U

(264/2-11)







Các bài mới
Đổ xăm hường (02/03/2020)
Các bài đã đăng
Tục ném còn (12/03/2010)