PHẠM HỮU THU
Thái Hòa là cung điện bề thế nhất của kinh đô Huế xưa, xây dựng vào năm 1805, đến năm 1832 được vua Minh Mạng cho di chuyển từ phía sau ra vị trí hiện thời.
Cung điện rộng 1.200 m2, có hai dãy nhà ghép lại với nhau. Phía tiền doanh có 7 gian 2 chái, phía hậu doanh 2 chái 5 gian.
Bên ngoài của cung điện, mái được lợp bằng ngói hoàng lưu ly, bờ nóc đắp lưỡng long triều nguyệt, ở đầu và góc mái đắp hồi long. Các ô, hộc trên bờ nóc, cổ diềm được trang trí theo lối nhất thi nhất họa bằng pháp lam tuyệt đẹp.
Ở phía bên trong cung điện có 80 cột gỗ lim lớn được sơn son vẽ hoa văn và rồng vàng. Từ khi xây dựng đến năm 1985, điện đã được nhiều lần tu bổ, trong đó đáng chú ý là năm 1891 vua Thành Thái cho lát toàn bộ nền bằng gạch hoa. Năm 1923, vua Khải Định cho đại trùng tu, hệ thống cửa gương được lắp ghép. Trong giai đoạn từ 1960 - 1973, một số cấu kiện bằng gỗ do bị mối, mục nên đã được thay thế. Sau giải phóng, do kinh phí chỉ cấp theo dạng của hành chính sự nghiệp nên chỉ đủ để tô trát, chắp vá, mãi đến năm 1989 nhờ Nhà nước điều chỉnh vốn xây dựng cơ bản nên việc tu bổ Điện Thái Hòa mới thực tiến hành vào năm 1990. Ngoài việc giữ gìn các chi tiết nguyên gốc, để trả lại cho di tích những giá trị vốn có của nó mà thời gian hay nhiều nguyên nhân khác đã tước đi, vấn đề phục chế những chi tiết mới đã được đội ngũ làm công tác này hết sức chú ý. Ở công trình tu bổ Điện Thái Hòa yêu cầu này được đặt ra nghiêm túc, mà giải pháp thay thế cột G6 đã thực sự thu hút tâm sức của nhiều người, trong đó có kiến trúc sư Phùng Phu, người được phân công theo dõi và thực hiện.
Cột G6 cao 8,90 m, đường kính ngang thân 0,48 m có trọng lượng 1500 kg đứng ở vị trí giữa hậu doanh (tả thất) dính với góc trái bửu tán thếp vàng, thêu hình viên long. Cột có liên kết 4 chiều, nhận 16 lỗ mộng (mộng xẻ, mộng thắt, mộng buông...) chịu lực tổng hợp là 20 tấn. Cột vừa bị thương, vừa lún chân vì mục và rỗng ruột - do bệnh tiêu tâm. Nếu không kịp thời thay thế thì cung Điện Thái Hòa có nguy cơ sụp đổ.
Trước khi kiến trúc sư Phùng Phu trình bày phương án của mình, Trung tâm bảo tôn di tích cố đô Huế có mời một số kiến trúc sư ở Trung ương và địa phương đến khảo sát và hiến kế. Có người do ngại trước yêu cầu khắt khe nên im lặng, có người đề xuất dùng cần cẩu dựng trên nóc mái để thi công! Dĩ nhiên phương án thuần tuý kỹ thuật và phiêu lưu này đã không được chấp nhận, vì làm như vậy thì còn đâu là bảo tồn những long với nguyệt ở nóc của cung điện.
Trong 4 phương án của Phùng Phu nêu ra thì phương án giữ nguyên hiện trạng để đưa cột vào vị trí thay thế đã được chọn, sau khi đã loại trừ những giải pháp làm hỏng nền (hạ thổ) cột không đủ sức đứng yên khi có bão (cắt cột) hoặc triệt giải cả hai gian và tháo bửu tán - phương án này an toàn nhưng chi phí quá tốn kém.
Tiếp thu kỹ thuật hiện đại kết hợp với truyền thống dân tộc đã được thể hiện ở giải pháp này. Để đảm bảo an toàn cho cung điện, một hệ thống giàn giáo đã được thiết lập với những chức năng được tính toán kỹ như không chỉ làm nhiệm vụ chống đỡ mà còn là điểm tựa, giàn giáo vừa cố định vừa tháp lắp các thanh ngang, dọc chéo để định vị khi đưa cột vào vị trí. Do cột mới thay nặng đến 1.800 kg nên pa-lăng được dùng làm lực nâng chính và phụ trợ cho nó là hệ thống tăng-đơ, dây xoắn kéo, con lăn và đòn bẩy. Dù rất phức tạp, nhưng nhờ bám sát hiện trường và tính toán kỹ nên sau ba tháng triển khai, cột G6 đã được thay thế an toàn.
Thành công này đã thôi thúc những người thợ vận dụng vào việc thay thế các cột đã hư hỏng ở trong cung điện. Và để trả lại cho cung điện vẻ đẹp mang tính nguyên gốc, dưới sự chỉ đạo của họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàng, việc sơn son thếp vàng đã được tiến hành. Do yêu cầu khắt khe của quy trình công nghệ nên bình quân một cột phải sơn hết 5 tháng, vì nếu thời tiết nóng quá hoặc lạnh quá sơn không khô. Mỗi cột phải trải qua 13 lần sơn trong điều kiện như vậy.
Nói đến việc tu bổ Điện Thái Hòa không thể không đề cập đến công lao của giám đốc Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế, Thái Công Nguyên.
Tư liệu cho biết: Trước năm 1975, không có ngói hoàng lưu ly. Để chống dột, những người tiến hành bảo quản phải đành lòng dùng ngói liệt để thay thế. Để trả lại cho công trình vẻ đẹp lộng lẫy của cung điện xưa, khi mới lên nhậm chức, Thái Công Nguyên phải chạy đôn chạy đáo ra Bắc vào Nam, cuối cùng mới được nghệ nhân Nguyễn Chi từ Hà Nội vào Huế giúp Trung tâm phục chế vật liệu xây dựng cổ.
Để mua cái may, giám đốc Trung tâm đã dốc túi riêng để chịu trước cái rủi, vì chưa có sản phẩm thì lấy gì để mà đầu tư cho việc mời thầy lập xưởng. Ngói thanh lưu ly, hoàng lưu ly cuối năm 1990 được sản xuất thành công ở Huế và thực sự đã góp phần trả lại vẻ đẹp xưa cho Điện Thái Hòa.
Thành công của việc tu bổ Điện Thái Hòa đã làm nhiều người mãn nguyện nhưng gánh nặng của các công trình khác đã làm cho kiến trúc sư Phùng Phu trăn trở khôn nguôi. Tốt nghiệp ở Ba Lan năm 1974, một thời gian anh về Huế làm việc ở Viện thiết kế. Kết hợp tri thức khoa học với phương pháp xây dựng cổ truyền luôn được anh lưu tâm. Với anh, việc thay thế các trụ cột chính ở Hiển Lâm Các, Lầu Ngũ Phụng, Khương Linh Các, Khiêm Cung... vẫn đang là một thách thức lớn, bởi nó khó hơn cột G6 của Điện Thái Hòa nhiều.
Khi chuyện trò với tôi, Phu biểu lộ luôn luôn một niềm day dứt: đó là chất lượng của vật liệu.
Anh nói:
- Nguyên nhân cơ bản của mọi hư hại ở khu di tích Huế hầu như đều xuất phát từ độ bền và tuổi thọ của các cấu kiện gỗ. Thời gian qua, bằng các biện pháp gia cường, chắp, nối, vá... đến việc phục hồi các cấu kiện, các chi tiết trang trí nguyên gốc bằng gỗ luôn được chúng tôi chú trọng ở mức tối đa. Nhưng thú thực việc xử lý để bảo quản vật liệu gỗ đang nằm ở ngoài tầm tay của chúng tôi!
Vì sao vậy?
- Giản dị thôi, vì chúng tôi không có tiền. Nếu Nhà nước cấp trước cho chúng tôi vài trăm khối gỗ, thì học tập người xưa, chúng tôi sẽ ngâm bùn để chống mọt. Người Nhật dù có công nghệ tiên tiến nhưng vẫn thán phục cách chống mọt của người Việt chúng ta.
Ở Lầu Ngũ Phụng, ở Điện Thái Hòa, chúng tôi đã không thực hiện được điều đó. Mong hậu thế tha thứ cho! Với cấu kiện gỗ ta có thể khắc phục được, còn chất lượng của những viên ngói thanh lưu ly hoàng lưu ly thật khó mà phục hồi được như xưa, dù những cố gắng của Trung tâm khó ai mà phủ nhận.
Một viên ngói cổ đạt tiêu chuẩn phải cho màu vàng cam, khi gõ tiếng vang rất thanh. Nhưng viên ngói hiện nay rực rỡ hơn và tiếng vang không bằng vì nhiệt còn thua đến 300oC, ảnh hưởng đến độ bền của vật liệu. Biết nhưng chưa khắc phục được vẫn là nỗi ưu tư của nhiều người con xứ Huế khi nghĩ về ngành nghề thủ công truyền thống đang dần bị mai một, thất truyền và đang cần cứu vãn.
Huế, cuối năm 1993
P.H.T
(TCSH61/03-1994)