Trước khi trình bày luận điểm của mình, chúng tôi xin trình bày ý kiến của những người đi trước: Văn Lang trong “Ca Huế và ca kịch Huế” nêu ý kiến về nguồn gốc và thời điểm phát sinh ca Huế: “Nếu xác định rằng dưới triều Lý, hát tuồng đang trên đường hình thành mà nhạc tuồng là xuất phát từ nhạc cung đình, thì chúng ta có thể nói nhạc cung đình phải hình thành trước đó, ít nhất cũng từ thế kỷ X. Do vậy cho phép chúng tôi được nói ca nhạc Huế (tức ca nhạc cổ truyền) cũng bắt nguồn từ đấy (…) Cứ thế, ca nhạc cổ truyền được phát triển qua nhiều triều đại với nhiều thế kỷ, và cuối cùng quy tụ lại trên mảnh đất Thuận Hóa. Thời điểm quy tụ có thể căn cứ vào hai sự kiện lịch sử dưới đây mà nhiều người đã từng nói đến. 1. Nguyễn Hoàng, con trai Nguyễn Kim - phải vận động xin vào trấn thủ Thuận Hóa (năm 1558) và kiêm trấn thủ Quảng Nam (năm 1570). 2. Từ thế kỷ XVII họ Nguyễn ở Đàng Trong đã đẩy mạnh công cuộc khai hoang (…) với điều kiện kinh tế ở Thuận Hóa ngày càng được phát triển, đồng thời gặp mảnh đất giàu có về thơ ca đầy chất trữ tình, ca nhạc cổ sau khi quy tụ ở đây càng có điều kiện phát triển phong phú, dần dần được hình thành rõ nét và trở nên hoàn chỉnh”. (1) Ưng Bình Thúc Giạ Thị đoán định: “Duy điệu ca khởi điểm từ đời nào, khi nào, sử thơ không truyền lại, chỉ thấy thời đại yêu chuộng nghề văn mà đoán, thời khởi điểm từ đời Hiếu Minh” (2) (Chúa Nguyễn Phúc Chu - TTB chú). Thái Văn Kiểm trong “Cố đô Huế” nhất trí với cụ Ưng Bình: “Còn như các điệu ca Huế thì có lẽ như mới sản xuất từ đời Chúa Minh Tộ Quốc công Nguyễn Phúc Chu, tức là Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế (1691 - 1725)” (3). Lê Văn Hảo lại cho rằng: “Thời kỳ hình thành và bước đầu phát triển của ca nhạc Huế là vào khoảng từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII. Giữa thế kỷ XVIII, ca múa nhạc đã phát triển phong phú tại đô thành Phú Xuân”. (4) Văn Thanh, trong thay lời tựa sách “Tìm hiểu ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên” khẳng định: “Được hình thành từ thế kỷ XIX, nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ XX, ca Huế mới thực sự hoàn chỉnh và thời gian cực thịnh của ca Huế là vào khoảng những năm của thập niên 20 cho đến khi thế chiến thứ hai bùng nổ”. Giáo sư Trần Văn Khê cũng bàn về thời điểm hình thành ca Huế: “Không có sử liệu nào nói rõ lối ca Huế có từ bao giờ, chỉ biết rằng ca Huế không phải là loại nhạc dân gian, vì nó chỉ được giới quyền quý hoặc trong cung đình sử dụng. Vậy có thể nói rằng đây là loại quan nhạc chứ không phải là loại dân nhạc”.(6) Qua các ý kiến trên, chúng ta nhận thấy chỉ có Văn Lang và giáo sư Trần Văn Khê đề cập đến nguồn gốc ca Huế là nhạc cung đình. Các ý kiến của Ưng Bình Thúc Dạ Thị, Lê Văn Hảo, Thái Văn Kiểm, và Văn Thanh lại đề cập đến sự hình thành của ca Huế với những giả thiết khác nhau. Đa số thống nhất ca Huế hình thành vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, dưới thời đại chúa Nguyễn Phúc Chu cầm quyền (1691 - 1725). Riêng Văn Thanh lại cho ca Huế hình thành từ thế kỷ XIX. Chúng tôi sẽ bàn định về những ý kiến này: Về nguồn gốc sâu xa của ca Huế, Văn Lang dựa vào nguồn gốc nhạc tuồng là nhạc cung đình mà cho rằng ca Huế (tức nhạc cổ truyền) cũng phát xuất từ đấy. Ý kiến này tuy có cơ sở khi căn cứ trên lịch trình tiến triển của ca Huế, nhưng chúng tôi nghĩ rằng còn có thể bổ sung thêm. Ngọn nguồn sâu xa của âm nhạc dân tộc bao giờ cũng có nguồn từ dòng âm nhạc của dân tộc đó. Ca nhạc Huế không ra ngoài quy luật ấy. Ngọn nguồn của nó là dòng âm nhạc chuyên nghiệp của cư dân Việt, vốn manh nha trong các thời Lý, Trần, Lê, đã vào xứ Huế qua các cuộc di dân của người Việt ở Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa và miền đồng bằng Bắc Bộ. Ngọn nguồn thứ hai ẩn sâu hơn, nó không trực tiếp và mạnh mẽ tác động vào ca nhạc Huế, nhưng thấm đậm sâu sắc, hồn nhiên đó là dòng âm nhạc dân gian ngàn đời của dân tộc. Có lẽ do ngọn nguồn này mà sau một thời kỳ phát triển mạnh mẽ ở cung đình trong các sinh hoạt ca hát vui chơi của tầng lớp thống trị, ca Huế lại trở thành phổ biến ở dân gian. Nó trở về với dân gian do tự bản thân đã chan hòa tình cảm lắng đọng và tràn đầy dân tộc tính. Kiến giải của giáo sư Trần Văn Khê liên quan đến cơ sở phát sinh của ca Huế. Các chúa Nguyễn ở Đàng Trong tiếp nối truyền thống thưởng thức âm nhạc ở Đàng Ngoài mà cho tổ chức các buổi ca nhạc có lời ca ở cung đình. Thú thưởng ngoạn này lúc đầu chỉ giới hạn ở phủ chúa hoặc các bậc vương công, mãi sau này mới lan ra quần chúng. Như vậy, tuy không trực tiếp xác định thời điểm và nguồn gốc phát sinh, nhưng giáo sư đã gián tiếp cho rằng ca Huế phát sinh vào thời điểm các chúa Nguyễn tại vị ở Huế, đó là bộ môn nghệ thuật được sản sinh ở cung đình. Đây là đầu mối cho chúng ta tìm sợi dây thời điểm hình thành ca Huế. Chúng ta cũng cần nhận định rằng, ca Huế là ca nhạc thính phòng, người ca, người đàn cùng người thưởng thức là những khách tri âm. Đây là một thứ nghệ thuật tao nhã của tầng lớp tao nhân mặc khách ở chốn cung đình có cuộc sống phong lưu, tâm hồn khoáng đạt tài năng thiên phú. Xét âm nhạc các bài ca Huế, ta thấy rõ là các giai điệu hoàn chỉnh. Ca Huế vừa là thanh nhạc vừa là khí nhạc kết hợp với nhau trong một hệ thống những bài bản cấu trúc chặt chẽ nghiêm ngặt. Ca Huế là loại ca nhạc cổ điển, nó có cơ hội hình thành ở một vùng đất có điều kiện kinh tế văn hoá phát triển, giàu có về thơ ca, đầy tính chất trữ tình. Xét về những điều kiện ấy, Thuận Hóa quả là địa điểm thích hợp nhất hội đủ các yếu tố để ca Huế sống được và phát triển. Tuy nhiên, xét về thời điểm hình thành ta lại phải thấy thời điểm đó phải là thời điểm thuận lợi. Để ấn định được điều này, cần phải trở lại lịch sử của dân tộc. Thuận Hóa hình thành từ thế kỷ XIV, sau sự kiện Chế Mân dâng hai châu Ô Lý làm sính lễ cưới Huyền Trân Công Chúa. Nhưng ở giai đoạn này, di dân từ Nghệ Tĩnh vào cần ổn định chỗ ở và sinh cơ lập nghiệp. Tâm trí và sức lực của họ dồn vào việc bảo vệ lãnh thổ đất đai, chống đỡ sự xâm lấn của tàn quân Chămpa trở lại quấy rối. Vị trí của Thuận Hóa lúc đó ngang tầm một châu. Dân cư phần lớn là lớp di dân, trình độ văn hoá thấp nên phần văn nghệ phát triển chỉ có thể là văn nghệ dân gian. Thời điểm kế tiếp là cuộc di dân từ Thanh Hóa vào do Nguyễn Hoàng dẫn đầu vào thế kỷ XVI (1558). Giai đoạn đầu cũng lo bảo vệ lãnh thổ, chống đỡ sự xâm lấn của quân Mạc, quân Trịnh. Thì giờ rảnh rỗi không nhiều, dinh Chúa lại không ổn định. Từ Ái Tử (thuộc huyện Đằng Xương gần tỉnh lỵ Quảng Trị) 13 năm sau (1570) lại dời vào Trà Bát ở huyện ấy tức là Cát Dinh. Đến năm Bính Dần (1626) chúa Sãi sắp chống nhau với chúa Trịnh mới dời dinh vào làng Phúc An (huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên). Năm Bính Tý (1636) chúa Thượng lại rời phủ vào Kim Long (Hương Trà, Thừa Thiên). Năm Đinh Mão (1687) chúa Nghĩa đem phủ vào làng Phú Xuân, là đất kinh thành bây giờ gọi là chính dinh. Trong các giai đoạn ấy, thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635) lại bắt đầu chống quân Trịnh. Kế tiếp các chúa về sau như Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648), Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) là những năm chống nhau với Trịnh ác liệt. Chiến tranh Trịnh Nguyễn kéo dài 45 năm (1627 - 1672) khó có điều kiện để an hưởng thú nghệ thuật tao nhã ở cung đình. Khi chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691) dời phủ từ Kim Long về Phú Xuân năm 1687, chúa chỉ ở ngôi được 4 năm thì mất. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) kế vị, là vị chúa mộ đạo, có tài văn chương, ham mê nghệ thuật lại ở ngôi 34 năm nên có đủ thì giờ và điều kiện để nuôi dưỡng và phát triển ca Huế. Giả thuyết cho rằng ca Huế hình thành dưới đời chúa Nguyễn Phúc Chu là có cơ sở. Lịch sử nghệ thuật Đàng Trong cũng từng ghi nhận chúa Nguyễn Phúc Chu là một người có tài và ham mê trình diễn tuồng. Thích Đại Sán, nhà sư Trung Quốc được chúa mời sang Việt Nam để hoằng dương đạo pháp đã ghi lại trong “Hải ngoại ký sự” (7) chính chúa tự mình đánh trống chầu cho đội tuồng trong cung diễn tuồng. Ý kiến cho rằng chúa là tác giả bài “Ai Giang Nam” (Nam Ai) không phải là không có căn cứ. Như vậy, có thể xét: ca Huế có nguồn gốc từ lối ca nhạc ở chốn cung đình và đậm đà chất dân gian từ ngọn nguồn dân tộc, đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu thì đã hình thành rõ nét là một bộ môn nghệ thuật của tầng lớp tao nhân mặc khách, lúc đầu ở dinh thự, phủ chúa, sau mới lan ra ngoài dân gian. Cũng cần bàn thêm một ý nữa. Về sinh hoạt ca Huế, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm tương đồng với ca trù: cũng chung một nguồn gốc là bắt nguồn từ những lối ca vũ trong cung vua chúa thời xưa. Lối hát Ả Đào có từ đời Lý, thuở ấy những người đi hát gọi là con hát, chữ Hán là xướng nhi hoặc ca nữ. “Năm Thuận Thiên thứ 16 (1025) vua Lý Thái Tổ đặt chức Quản giáp cho giới con hát” (8). Thể thức cùng cách thưởng ngoạn ca trù cũng như ca Huế, ca nhi ngồi mà hát, nhạc công đàn. Số khách thưởng ngoạn không nhiều chỉ một số bạn hữu, tao nhân, trí thức, lại tổ chức hát trong nhà. Những cách thức hát ấy chẳng khác gì ca Huế. Các chúa Nguyễn muốn chứng tỏ tinh thần độc lập ở một vùng văn hoá khác biệt với chúa Trịnh ở miền Bắc nên hết lòng cổ xúy cho nghệ thuật ca Huế, một thú thưởng ngoạn tao nhã ở chốn kinh kỳ của tầng lớp thống trị. Về sau, ca Huế ngày càng thịnh đạt, lại ảnh hưởng lan ra Bắc, vào Nam. Dòng nhạc cổ điển này đã ảnh hưởng đến dân ca quan họ Bắc Ninh và nghệ thuật sân khấu chèo ở Bắc Bộ. Ca nhạc Huế là nguồn làm nảy sinh hai hình thức âm nhạc cổ điển được nhân dân địa phương rất ưa thích, đó là đàn Quảng phổ biến ở vùng Nam Trung Bộ và nhạc tài tử (hay đờn tài tử) phổ biến ở Nam kỳ. Lòng văn tế tổ ngành cổ nhạc ở Huế có ghi tên tổ sư Bạch Hoa công cháu, vốn là tổ cô đầu của hát ả đào ở Bắc. Hẳn đó không phải là điều ngẫu nhiên mà do ý thức “Uống nước nhớ nguồn” của những người hoạt động nghệ thuật ở Huế. Cùng thờ chung một vị tổ sư, đó là điều trùng hợp giữa ca trù và ca Huế, gợi cho chúng ta một sự liên tưởng về những điểm tương đồng trong hai bộ môn nhà thơ đầy dân tộc tính này. Đánh giá về ca Huế, nhạc sỹ Lưu Hữu Phước viện trưởng viện Âm nhạc đã khẳng định: “Trong toàn bộ vốn ca nhạc cổ truyền của dân tộc, một kho tàng quý báu vô giá là nền nghệ thuật ca nhạc Huế của chúng ta (…) Nghệ thuật ca nhạc Huế là một cột mốc lớn đánh dấu một giai đoạn phát triển của văn hoá dân tộc” (9) Chúng tôi rất trân trọng sự đánh giá cao về ca Huế của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước cùng những công lao tìm về nguồn gốc về sự hình thành ca Huế của những tác giả đi trước. 1. Giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu của ca Huế: Có thể là từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII tại Phú Xuân, nơi đặt thủ phủ của cháu Nguyễn, thuộc phía Nam kinh thành Huế hiện nay. Chính trong giai đoạn này các điệu ca Huế lần hồi xuất hiện. Các điệu nổi tiếng như: Cổ bản, Phú lục, Nam ai, Nam bình đã lưu hành rộng rãi trong dinh phủ chúa. Ca Huế là một bộ môn nghệ thuật độc đáo bởi lẽ không phải ai ca cũng đúng giọng điệu mà cần phải là người sinh ra trên vùng đất Trị Thiên mới ca khỏi trại bẹ. Trị Thiên là vùng ngữ âm đặc biệt, có âm vực cạn hẹp nhất nước. Cụ Ưng Bình đã từng nhận xét: “Ca mà gọi là ca Huế vì thanh âm người Huế hiệp với điệu ca này, mà phía Bắc xứ Huế như người Quảng Trị với Quảng Bình cũng ca được. Còn từ Linh Giang dĩ Bắc, Hải Vân Quan dĩ Nam, dầu có người ca mà ca giỏi thế nào cũng có hơi trại bẹ. Đó là câu chuyện ai cũng biết rồi” (10). Xét về mặt âm nhạc, người Huế ca hay hò theo ngũ cung hơi nam giọng ai (đô, rê non, fa già, sol, la non). Đây cũng là ngũ cung phát sinh do sự phối hợp giữa ngũ cung đúng (đô, rê, fa, sol, la) của người Champa, do sự giao lưu văn hoá. Để giải thích hệ quả này, có giả thuyết cho rằng: Cư dân ở Huế, vốn có gốc là Thanh Nghệ, di dân lập ấp ở Phú Xuân cùng chung sống với cư dân bản địa Champa quyến rũ, nên mới sáng tác các làn điệu mang hơi hưởng pha trộn Việt - Chăm. Ưng Bình Thúc Giạ Thị cho ta biết đặc điểm của ca Huế như sau: “Điệu ca Chiêm Thành rất ai oán, trong sử đã nói ca Huế là khúc ca Nam, thời Nam Bình. Nam Ai quả là phổ theo thanh điệu Chiêm Thành mà làm ra, không nghi nữa” (11). Ở thời kỳ này, trong âm nhạc truyền thống của ta đã có điệu Bắc và điệu Nam, mà đó là hai hình thức chính của ca Huế. Các nhạc khí cơ bản của ca Huế như đàn tranh, đàn nguyệt, đàn nhị, đàn tỳ bà, đàn tam, sáo và sênh đều có mặt. Vào giữa thế kỷ XVIII, Luân Quốc Công Nguyễn Phúc Tứ - em của Nguyễn Phúc Khoát, một người rất sành về âm nhạc truyền thống, đã nghiên cứu từ ba cây đàn cầm, đàn sắt và đàn tỳ bà, mà chế ra một cây đàn mới gọi là đàn nam cầm 8 giây, thùng dày và vuông, cầm dài 120cm để nhấn nhịp cho đúng với các điệu nam. Ở thế kỷ XIX, đàn nam cầm sẽ là một nhạc khí quan trọng trong ca nhạc Huế”(12). Cũng có truyền thuyết cho rằng, nam cầm (có lẽ là đàn bầu, vì trong Nam người ta truyền rằng đàn bầu có từ thời chúa Nguyễn) là do Nguyễn Phúc Dục, con trai trưởng của Nguyễn Phúc Tứ chế ra trước (13). Chúng tôi xin ghi lại đây cả hai ý kiến về tác giả nam cầm để tiện bề tham khảo. “Vào cuối thế kỷ XVIII một số nhạc sỹ, nhạc công Việt Nam đã nghiên cứu từ cây đàn nguyệt cầm của Trung Quốc và Mông Cổ để chế ra cây đàn nguyệt Việt Nam mà họ đặt tên là cây đàn song vận lúc đầu có 4 dây, về sau còn lại 2 dây như đàn nguyệt hiện đang thông dụng ngày nay. Cùng với đàn nhị, đàn tranh và đàn tỳ bà, đàn nguyệt là một trong những nhạc khí tiêu biểu trong dàn nhạc của ca nhạc Huế; âm thanh, âm sắc của nó rất phù hợp với ca nhạc Huế. Có thể xem đàn nguyệt là một trong những cây đàn “Huế” nhất trong các nhạc khí Việt Nam truyền thống”(14). Như vậy, có thể nói trong giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu này, ca Huế đã có những bài ca cơ bản về điệu thức Bắc và Nam, đàn Huế và đàn dân tộc đã khá đầy đủ để đệm hơi cho các nàng ca kỹ; báo hiệu cho giai đoạn phát triển và thịnh đạt của ca Huế vào thế kỷ kế tiếp. 2. Giai đoạn phát triển và thịnh đạt Đó là thời kỳ từ khoảng đầu thế kỷ XIX đến trước ngày thất thủ kinh đô (1885). Lúc bấy giờ, ngoài dân gian cũng như chốn cung đình, ca Huế đã phổ biến rộng rãi. Trong cung đình có một số bài ca Huế có lời bằng chữ Hán (ví dụ mười bài ngự trong ca nhạc Huế vừa có lời chữ Hán thông dụng trong cung đình, vừa có lời Nôm thông dụng trong dân gian). Mười bài ngự (mười bài liên hoàn) do nhạc công trong ban ngự nhạc của triều đình nhà Nguyễn tấu lên trong những dịp xe vua ra vào cung điện, nhưng mười bài ngự đó là những bài bản vay mượn từ ca nhạc Huế và bị cung đình hóa. Đến năm 1863, một tác giả vô danh đã ghi một tập bài bản ca nhạc Huế (15) khá hoàn chỉnh gồm 25 tác phẩm: 10 bản có kèm theo lời ca và 15 bản không có lời ca. Tên của một số bài bản đó là: Lưu Thủy, Kim Tiền, Xuân Phong, Hồ Quảng, Nam Xuân… là những bài bản giống tên với những bài bản còn thông dụng trong ca nhạc Huế. Bên cạnh đó những bài bản ngày nay đã thất truyền như: Trường thán, Tự trào, Tư mã tương như, Tiên nữ tống Lưu Nguyễn, Bá Nha khấp Tử Kỳ v.v… Đáng chú ý là trong 10 bản có lời ca thì 9 bài có lời bằng chữ Hán, chỉ có bài Trường thán là có chữ Nôm. Giai đoạn này có nhiều nghệ nhân nổi tiếng trong dân gian như Đẩu Nương, một ca nhi ở An Cựu, các nhạc công Biện Nhân, Trần Quang Phổ, Tống Văn Đạt. Trong cung đình, một số ông hoàng bà chúa con của Minh Mạng (1820-1840) có tài sáng tác, hay tổ chức các buổi sinh hoạt ca nhạc thính phòng như các ông hoàng Trấn Biên, Lãng Biên, các công chúa Ngọc Am, Lại Đức (tức Mai Am) đều có sáng tác lời cho bài bản nhạc Huế. Công chúa Huệ Phố vừa là nhà thơ, vừa giỏi đàn ca, có tập họp một ban nữ nhạc do chính bà huấn luyện. Ông hoàng Nam Sách đàn nguyệt rất hay, đã soạn cuốn Nguyệt cầm phổ vào năm 1859. Cũng trong khoảng thời gian ấy, ông hoàng Miên Thẩm (nhà thơ Tùng Thiện Vương) soạn cuốn Nam cầm phổ. Ông hoàng Miên Bửu (nhà thơ Tương An quận vương) nổi danh về đàn tỳ bà và đã đặt lời cho nhiều bài bản ca nhạc Huế. Năm 1850 ông hoàng Miên Trinh (nhà thơ Tuy Lý Vương) đã sáng tác một bài ca Huế dài hơn nhan đề là Nam cầm khúc để tiễn bạn là Nguyễn Văn Siêu về Bắc. Khúc nam cầm này được ca nhi nổi tiếng là Đẩu Nương ca và tự đệm bằng cây nam cầm. Sau khi Đẩu Nương mất (vào khoảng cuối thế kỷ XIX) đàn Nam cũng thất truyền. Một số bài bản lớn được sáng tác hoặc được hoàn thiện trong thời đại này, ví dụ như bài Tứ đại cảnh tương truyền là đã ra đời vào thời Tự Đức (1848-1883). E.Le Bris, trong bài âm nhạc Việt Nam - Những nhạc sĩ mù ở Huế; bài Tứ đại cảnh (Musique annamite - les musiciens aveugles de Hue, le Tu dai canh) (16) lại cho rằng đây là sáng tác của một ông vua đi đánh giặc ở phương Tây, nhưng không xác định tên vị vua nào. Tác giả viết: “Ở Huế có một bài mà mọi người Việt đều biết từ anh cu li khốn khó đến ông quan lớn, đó là bài Tứ đại cảnh “Phong cảnh của bốn thế hệ”(…) Bài này ra đời vào giai đoạn nào? Không một ai biết chắc. Huyền thoại cho rằng đã qua nhiều thế hệ, một ông vua đi đánh giặc ở Phương Tây, một ngày kia thấy một cái tháp cổ 400 năm, xây trên một ngọn đồi mà từ đó ta nhìn thấy một quang cảnh hoành tráng tuyệt diệu. Xúc động trước quang cảnh kỳ diệu đó ông ta muốn tôn vinh kẻ đã biết xây dựng ở một vị trí thuận lợi một di tích có khả năng tồn tại bốn thế kỷ, bèn sáng tạo tám trường canh sau đây với bốn nốt nhạc: “liu, cống, xê, xàng” (16) Tác giả còn cho biết nội dung “Tứ đại cảnh” nhằm tôn vinh kẻ sáng tạo cái tháp cổ 400 năm, qua bốn thế hệ. Nếu chúng tôi không lầm thì đó là một tháp Chàm. Chúng tôi nghĩ rằng, đây là một truyền thuyết đáng ngờ về tính xác thực. Hoàng Yến còn cho ta biết thêm một số nhạc sĩ nổi tiếng khác: “Ngày xưa, Dùng và Thắm nổi tiếng về đàn dây. Và Tam nổi danh thổi tiêu. Có câu nói “Xứ An Nam có 4 người nổi tiếng: Ngạn cao cờ, Thiện vẽ giỏi, Tam thổi tiêu và Dùng hay đờn”. Sau hai nghệ sĩ này là đến Bền và Nhờn (Nhàn) rồi Tống Văn Đạt. Trong lời tựa của một tác phẩm về nhạc của mình, ông Hoàng Nam Sách nói: “Đạt là một người đặc tài, anh chỉ xuất hiện ở những đại gia. Người ta trọng tài anh với cung cách thật đặc biệt”. Tiếp đến là cậu Ba Toán; Phò Mã 24; Trần Quang Thổ; Đội Chín, con của Đạt; Đội Phước, con Đội Chín. Đội Chín thừa kế tài năng của cha, thiện nghệ các nhạc cụ dây. Vua Dực Tôn (Tự Đức) rất ưa thích ông ta. Nhà vua phong làm trưởng đội nhạc công hoàng gia (Nhạc chánh suất đội). Sau khi ông mất nhà vua thương tiếc không nguôi, ra lệnh gọi các con ông đến và hỏi trong số đó có ai có thể kế tục người cha. Cậu Đội Phước rất giỏi các loại đờn dây. Nhà vua cho anh làm suất đội kế chân Đội Chín. Còn có thể kể thêm: Cậu Thứ, Bá Yến làng Minh Hương; cậu Khánh, cậu Trương Sáu, thông phán Châu Hữu Ninh, ông bố chánh Trương Trọng Hữu, cậu Cung ở Kim Luông, tiến sĩ Đỗ Huy Liêu ở Bắc kỳ, cử nhơn Lê Cảnh người Quảng Trị. Trong số phụ nữ người ta kể bà Thiện trong cung ra, và bà Tứ giỏi tất cả các nhạc cụ” (17) Ngoài ra, trong công trình của mình, Hoàng Yến còn kể thêm các ông thông phán Tôn Thất Toại, giỏi đàn tranh và đàn tỳ bà, ông hoàng Mỹ Hóa nổi tiếng về tiêu, quan thị Tôn Thất Linh; Hầu Chí, người này chỉ nằm lòng một bài cổ bản, nhưng tài năng ông được dân chúng ghi nhận bằng câu: “Đờn thì Hầu Chí, hát thì hiệu Giỗ”. Trong giai đoạn ta thấy rõ ca Huế dần dần đã phổ biến ra ngoài dân gian. Các nhạc công, nghệ nhân giỏi về đàn của ca Huế đông đảo từ trong cung đình lẫn ngoài dân gian chứng tỏ sự phát triển sinh hoạt ca nhạc thính phòng từ các dinh phủ của các ông hoàng đến các gia đình quyền thế. Các ông hoàng bà chúa đều để lại những công trình nghiên cứu về đàn như Nguyệt Cầm Phổ, Nam Cầm Phổ và sáng tác những bài ca Huế như Công chúa Ngọc Am, Lại Đức, ông hoàng Miên Trinh, Tương An quận vương Miên Bửu. Các vua triều Nguyễn cũng rất thích ca Huế. Trường hợp vua Tự Đức để lại giai thoại về việc sử dụng các nghệ sĩ dân gian tài hoa làm chức suất đội trưởng điều khiển dàn nhạc như trường hợp Đội Chín, Đội Phước con cháu Tống Văn Đạt là một trường hợp cụ thể. Huế là địa điểm thuận lợi cho sự tập hợp cho một số nghệ nhân giỏi đàn ca xướng hát trong giai đoạn này. Ca Huế trở thành một nhu cầu văn hoá tinh thần không thể thiếu được ở chốn kinh đô. 3. Giai đoạn ngưng đọng và suy thoái Đó là giai đoạn kéo dài từ khi kinh đô thất thủ (1885) đến trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Thất thủ kinh đô (1885) là một cột mốc đánh dấu sự ngưng đọng, suy thoái của nhiều bộ môn nghệ thuật ở Huế. Tuồng và ca Huế là hai ví dụ tiêu biểu. Một nghệ thuật tao nhã như ca Huế làm sao phát triển bình thường trong thời tao loạn, tối tăm, đồi bại của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến. Trong giai đoạn này, ca Huế dần dần trở thành một thú tiêu khiển đã bị biến chất, đó là một cách ăn chơi trụy lạc sa đọa của đám bù nhìn tay sai bán nước. Chúng đã biết ca Huế là một sinh hoạt có tính chất thính phòng, người ca, người đàn cùng thưởng thức là những khách tri âm. Nhưng trong thời kỳ này, tính chất ấy đã bị biến đổi. Con sông Hương là nơi lý tưởng cho những lần tập họp khách tao nhân, tài năng thiên phú, nay cũng con sông ấy, những buổi tổ chức ca Huế đã biến thành những cuộc ăn chơi trác táng của những người có đồng tiền. Các nhạc công, ca sĩ lâm vào cuộc sống lầm than bế tắc. Có người bán rẻ tài năng, có khi bán cả nhân phẩm của mình để mua vui cho bọn người quyền quý giàu sang, lại còn chịu nhục vì thành kiến “xướng ca vô loại”. Trong hoàn cảnh ấy, một số lớn những nhạc công ngay thẳng, lương thiện vốn giữ gìn vốn cổ quý báu của cha ông. Họ nêu cao phẩm tiết chân chính của mình. Ta có thể kể tên các nhạc sĩ, ca sĩ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã có công bảo vệ ca nhạc Huế gồm: “Trợ quốc khách Ưng Dũng, gọi là Trợ Dõng, con trai ông hoàng Gia Hưng, giỏi đàn nguyệt. Ông cựu tri phủ Đoàn Diệu, gọi là Phủ Thông, giỏi tiết tấu và hòa điệu. Ông kiểm thảo Trần Trinh Soạn, thường gọi là Cả Soạn, người làng Minh Hương (Thừa Thiên) thiện nghệ về đàn tranh và nguyệt. Ông cửu phẩm Nguyễn Chánh Tâm, gọi là Cửu Tâm giỏi đàn tranh, đàn nguyệt. Ông tuần phủ Nguyễn Khoa Tân, người gốc An Cựu (Thừa Thiên) giỏi đàn tranh. Ông Ưng Ân, dòng dõi Tuy Lý Vương, ông Khóa Hài, tên thật là Ngô Phố người làng Bác Vọng (Thừa Thiên) ngụ ở An Cựu, thuộc nhiều điệu, nhiều bài. Ông Huyện hầu Ưng Biều gọi là Mệ Chín Thành, giỏi tất cả các loại đờn dây, nhưng nổi tiếng về đờn nhị và độc huyền. Ông Phan Đình Uyển gọi là cậu Ấm Ba, người Phú Lương (Thừa Thiên) giỏi đàn độc huyền và nổi tiếng về thổi tiêu. Đối với nữ nhạc công, người ta có thể kể: Cô Phò 24, vợ góa của Trần Quang Phổ, gốc người An Cựu (Thừa Thiên) và bà Khỏe, con cậu Cung (người Kim Luông) và vợ của Đốc Soạn, là những nữ nhạc công giỏi đàn tranh. Ta còn có thể kể cô Phủ Sáu và cô Trà là những người ca Huế hay” (18). “Khoảng mươi, mười lăm năm trước Cách mạng tháng 8, người ta thường nhắc tới những danh cầm, danh ca như: - Ông Cả Soạn, ông Bảy Thiều, ông Thừa Khiêm, cậu Khóa Hài… nổi tiếng về đàn tranh. - Ông Ngũ Đại (tức Vĩnh Trân), cậu Tôn Út… nổi tiếng về đàn nguyệt. - Ông Hầu Biều (tức Ưng Biều) nổi tiếng về đàn bầu và đàn nhị. - Ông Lý Vũ, ông Ưng Thông (thân phụ của nhạc sĩ Bửu Lộc) nổi tiếng về đàn nhị. - Ông Đội Trác, ông Ngũ Đại, ông Trợ Tồn, ông Sơn Huy Nguyễn Ngọc Liệu nổi tiếng về đàn tỳ bà. - Cô Nhơn, cô Thông Thắng, cô Tuyết Hương… nổi tiếng về ca Huế. - Về sáng tác, ông Ưng Bát là tác giả điệu Tương tư khúc ra đời vào những năm 1930. - Về nghiên cứu lý luận, có những công trình của Di Sơn Ưng Dự như Văn thích lục, Âm nhạc luận lược… của Hoàng Yến như Âm nhạc ở Huế, Cầm học tầm nguyên” (19). Chính trong giai đoạn, những con người ấy - bằng nhiệt tâm với vốn cổ âm nhạc cổ truyền, đã cố gắng hết sức mình để bảo tồn, gìn giữ những nét đẹp mang bản sắc Huế độc đáo. Mặc dù đất nước đang trong thời kỳ chưa độc lập, tự chủ, ca Huế có lúc đi chệch hướng, nhưng nhờ sự lưu tâm gìn giữ vốn quý của dân tộc, nên ca Huế vẫn còn cơ hội hy vọng phục hồi. 4. Giai đoạn tái sinh và phục hưng. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) ca Huế lại có cơ hội phục hồi. Tiếp nối truyền thống yêu dân tộc, bảo vệ những di sản quý báu của cha ông, ở vùng bị tạm chiếm, nhiều nhạc công và ca sĩ yêu nước đã có những cố gắng để bảo vệ ca Huế. Hành động này nhằm chống lại ảnh hưởng lai căng, đồi trụy, chống lại âm mưu thủ đoạn, nhằm lợi dụng mua chuộc, tha hóa nhằm biến ca Huế thành một thú tiêu khiển trụy lạc hay một công cụ chiến tranh tâm lý. Họ đã thành lập những ban nhạc, hội âm nhạc, nhạc viện tư nhân góp phần duy trì bảo vệ ca Huế như nhạc sĩ Bửu Lộc lập ban Hương Bình, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba lập viện Tỳ Bà ở Huế, và ở Sài Gòn, các nhạc sĩ Tôn Thất Toàn, Viễn Dung lập hội Ái hữu cổ nhạc miền Trung. Tục lệ tế tổ ngành ca nhạc Huế được duy trì tại từ đường cổ nhạc ở Huế từ năm 1971. Ở miền Bắc, nhiều nghệ nhân trước đây là những diễn viên, nhạc công ở các gánh hát ca Huế. Sau hòa bình lập lại năm 1954 đã tập kết ra Bắc. Họ bán tài sản riêng của mình để chiêu mộ lực lượng, thành lập ra đoàn ca kịch Huế vào hoạt động biểu diễn nghệ thuật phục vụ tại tuyến lửa Vĩnh Linh. Một trong những phương châm của đoàn là: Bảo vệ và phát huy vốn nghệ thuật truyền thống của dân tộc, mà ca Huế là loại hình nghệ thuật độc đáo, là sản phẩm tinh thần của nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Rất nhiều nghệ sĩ ca Huế đã trưởng thành trong thời kỳ này. Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, đoàn trở về quê hương, trở thành đoàn ca kịch Bình Trị Thiên (sau chia tỉnh 1989), nay là đoàn Ca kịch Huế. Từ 1993, đoàn có chủ trương xé lẻ để các diễn viên có thể diễn ca Huế trên sông, phục vụ khách du lịch. Các diễn viên nhạc công của Huế cùng tham gia mới đáp ứng được yêu cầu sau khi Huế được thế giới công nhận là di sản văn hoá của nhân loại vào tháng 12-1993. Có nhiều ý kiến cho rằng nghe ca Huế như thế nhộn nhạo quá, mất hẳn sự thanh thản, yên tĩnh của tiếng hò sông nước và giai điệu cổ của những bài ca cũng ít nhiều bị phá đi tiết tấu xưa. Đó là một vấn đề của hoạt động ca Huế thời hiện đại. Các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn này có thể kể Ưng Quả viết tập nghiên cứu về ca Huế (đã thất truyền trong cuộc chiến 1947), Ưng Bình Thúc Dạ Thị sáng tác các bài ca Huế đăng trong tập Bán buồn mua vui, Vu Hương, Kiều Khê, Thanh Tùng sáng tác các bài ca Huế trong tập Cố Đô Huế. Ngoài ra các cụ Hà Viên, Kính Chỉ, Hỷ Thần, Lương Khanh, Nhược Thủy, Diên Chi, Hòe Đình, Quật Đình là những người có tài sáng tác ca Huế. Về danh cầm phải kể ông Đội Song, cậu Tôn Đổng, cậu Tôn Lục, ông Mộng Tiên, ông Vân Hán, ông Bửu Huấn, ông Văn Tạ, ông Tôn Thất Toàn, ông Vĩnh Trân, ông Bửu Lộc (thạo đàn tranh), ông Nguyễn Hữu Ba (thạo đàn nhị), ông Vĩnh Phan, ông Nguyễn Kế (thạo đàn tỳ). Về danh ca cần nhắc đến tên các cô Ninh, Dung, Bạch Liên, Sâm, Quyến, Châu Loan, Thu, Tuyết, Bích Liễu, Thu Tâm, Vân Phi, Minh Tâm, Thanh Tâm, Vân Khánh, Châu Dinh, Ngọc Yến, Minh Mẫn, Thanh Hương v.v… Đó là một số gương mặt tiêu biểu trong giai đoạn đất nước trải qua nhiều biến động lịch sử. Đến bây giờ, ca Huế vẫn còn có cơ hội để tái sinh. Ca Huế trên thuyền rồng là một sinh hoạt tuy lấy hình thức cũ nhưng đã cải tiến cho phù hợp với thời đại mới. Hy vọng sau bao chuyển đổi, ca Huế có điều kiện trở lại với khán giả đất thần kinh trong tinh thần mới, ngày đất nước hoàn toàn thống nhất. T.T.B. (121/03-99) ------------- 1. Văn Lang: ca Huế và ca kịch Huế - Nxb Thuận Hóa 1993, tr 9-10 2. Ưng Bình Thúc Giạ Thị: Bán buồn mua vui. Khánh Quỳnh xb 1942 tr 5 3. Thái Văn Kiểm: Cố đô Huế. Bộ Quốc Gia Giáo dục xb 1960, tr 186-187. 4. Lê Văn Hảo: Huế giữa chúng ta, nxb Thuận Hóa, 1984, tr 141. 5. Văn Thanh: ca Huế. Sở VHTT Bình Trị Thiên, 1989, tr 11. 6. Trần Văn Khê: Bách khoa, số 101-102, 1961. 7. Thích Đại Sán: Hải ngoại ký sự. Viện Đại học Huế, 1967. 8. Khâm định Việt sử: quyển 2, tr 32. 9. Phát biểu trong nhạc hội ca nhạc Huế lần thứ nhất tổ chức tại Huế - 1977. 10. Ưng Bình Thúc Giạ Thị: Sách đã dẫn, tr 3. 11. Ưng Bình Thúc Giạ Thị: Sách đã dẫn, tr 4. 12. Tuy Lý Vương: Nam cầm khúc - Hồng Sâm dịch, Bửu Cầm chú thích. Nxb Tinh Hoa - Huế, 1949, tr VIII. 13. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Nxb Thuận Hóa, 1993, tập I, tr 47. 14. Lê Văn Hảo: Góp phần tìm hiểu ca nhạc Huế, Tạp chí Văn nghệ, số 9, tháng 7-1978, tr 74. 15. Tài liệu riêng của ông Hoàng Xuân Hãn ở Paris. 16. E.Le Bris - Musique annamite - les musiciens aveugles de Hue, le Tu dai canh. B.A, V.H, 1972, tr 143. 17. Hoàng Yến: La musique à Hue - đờn nguyệt et đờn tranh B.A.V.H.H, No Juillet - Septembre 1919 tr 258-259 - Bản dịch. 18. Ghi theo Hoàng Yến: Bài đã dẫn, tr 260. 19. Lê Văn Hảo: Góp phần tìm hiểu ca nhạc Huế - Tạp chí Văn nghệ số 9, tháng 7 - 1978, tr 75-76. |