Đời sống văn nghệ
Nhà tiên tri tầm cỡ đại đội
16:32 | 19/08/2008
PHÙNG QUÁN... Vì vậy mà có sự rung động bí mật của ý nghĩ, khiến nhà bác học trở thành người thần bí, và thi sĩ thành đấng tiên tri.                                                    (Victor Hugo - Lao động biển cả).


Tôi hằng nghĩ, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi địa phương lớn nhỏ... đều sản sinh những nhà tiên tri của mình. Họ lưu lại những lời sấm ký, nhiều khi được truyền từ đời này sang đời khác, tiên đoán tương lai, số phận, những bước thăng trầm của cộng đồng. Sấm ký của họ được mã hoá thành tục ngữ, ca dao, cổ tích, huyền thoại... và đôi lúc chỉ là lời nói bất chợt.
Có những nhà tiên tri nổi danh và rất nhiều nhà tiên tri vô danh. Có những nhà tiên tri tầm cỡ thế giới, quốc gia, và rất nhiều nhà tiên tri tầm cỡ thôn xã, chòm xóm.
Tuy tầm cỡ nhỏ vậy nhưng đôi khi lời sấm ký của họ cũng làm ta lạnh người...
Trung đoàn 101 chúng tôi cũng có một nhà tiên tri. Anh tên là Trần Vĩnh thư ký của đại đội trinh sát. Anh làm thơ, lấy bút hiệu là Trình Vân, sau đổi là Hồ Vi. Bài thơ Lời quê của anh có mặt trong Tuyển tập thơ kháng chiến do Nhà xuất bản Hội Văn Nghệ Việt xuất bản năm 1949.
Nhưng bài thơ Gửi người chín lăm của anh mới là bài thơ được cả trung đoàn truyền tụng.
Trung đoàn 95 là quân chủ lực tỉnh Quảng Trị. Chiến dịch đông xuân năm đó. 95 bí mật hành quân vào chiến trường Thừa Thiên để phối hợp chiến đấu với 101 chúng tôi. Hồ Vi thay mặt anh em 101 viết bài thơ này, gửi các chiến hữu trung đoàn bạn, khi hay tin họ đã lòng lọng vào ém quân trên đất chiến trường nhà.
... Sông tôi anh đến cắm sào
Nương tôi anh đến xới đào lôông cây
... Bữa tê hai đứa hai trời
Chừ đây chộ mặt mấy lời cho bưa
Theo tôi, Hồ Vi là nhà thơ có biệt tài sử dụng ngôn ngữ địa phương. Nhiều tiếng địa phương thô ráp, trúc trắc, nặng chình chịch... được anh đưa vào thơ, lập tức trở nên nhuần nhuyễn, ngân nga nhạc điệu và lấp lánh ánh vàng thi ca...
Như số phận của tất cả những người nổi tiếng, người yêu anh cũng nhiều mà người ghét anh cũng lắm.

Ngày đó trên tờ báo Giết giặc - tờ báo kháng chiến của tỉnh -hầu như số nào cũng có thơ của Hồ Vi, Hải Bằng, Tấn Hoài, văn xuôi của Nguyễn Khắc Thứ - những cây bút cự sự của Trung đoàn.
Ngoài những bài thơ đăng báo, Hồ Vi còn làm rất nhiều những bài thơ riêng tư mà anh gọi là Thơ Sổ Tay. Những bài thơ này anh chỉ đọc cho một số bạn hữu thân thiết trong trung đoàn “nghe chơi”. Và mỗi lần đọc xong, anh đều dặn người nghe: “- Nhớ là nghe mô bỏ đó! Đừng kể lại với ai, nhất là với mấy “xừ” cán bộ chánh trị...”.
Hồ Vi hăm hai, còn tôi vừa tròn mười sáu. Với con mắt những người lính mười sáu tuổi chúng tôi thì các nhà thơ là những siêu nhân. Tôi rất ngạc nhiên khi nghe anh Hồ Vi dặn những người nghe thơ như vậy. Tôi nói: “- Em mà làm được những bài thơ hay như rứa thì em phải mang đi khoe khắp chiến khu!”. Anh nhìn tôi, miệng cười mà ánh mắt buồn thiu: “- Rứa đó em ạ. Con cá trong lờ đỏ hoe con mắt - Con cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô...”. Ánh mắt buồn thiu và câu ca dao về con cá trong lờ, ngày đó tôi chưa hiểu nhưng đã ám ảnh suốt đời tôi.
Một đêm, trời chiến khu mưa tầm tã. Con sông Ô Lâu hiền hoà nước lũ đục ngầu dâng cao, hung dữ chảy ầm ầm tưởng chừng muốn cuốn phăng cả ngọn đồi mà lán trại đội trinh sát chúng tôi dựng chênh vênh bên sườn dốc.
Anh ngồi với tôi bên bếp lửa đốt ngay giữa lán trại, đợi mấy củ sắn lùi chín. Anh chợt hỏi tôi: “- Em có biết tại răng mà trung đoàn mình lại đặt là trung đoàn một trăm lẻ một không?”. Tôi đang mải xắm nắm lật lại mấy củ sắn cho chín đều, vừa lật vừa trả lời: “-Đó là phiên hiệu... Cấp trên muốn đặt số bao nhiêu mà chẳng được. Anh hỏi chi cắc cớ”. Anh ngồi bó gối, nói với tôi, mắt không rời ngọn lửa cháy bập bùng: “- Em đừng tưởng... Người ta đặt như rứa là có ý nghĩa cả đó em ạ. Một trăm là trung đoàn, còn lẻ một tức là nhà thơ Hồ Vi đó”.
Tôi bật phì cười. Câu nói tưng tửng của anh không ngờ đã ghi khắc vào trí nhớ tôi khác nào một vết bỏng sâu...
Sau khi anh chết và tôi đã lớn khôn hơn, tôi được biết những bài thơ riêng tư của anh không biết bằng cách nào đã lọt ra khắp trung đoàn. Rất nhiều chiến sĩ thuộc lòng, ngâm nga khe khẽ trên đường hành quân, chép tặng các o “Suý Vân - Suý Kiều” ở các thôn xóm trú quân. Vì tính chất lây lan của những bài thơ riêng tư này mà thơ Hồ Vi được coi là một hiện tượng và cán bộ lãnh đạo tỉnh ngày đó đặc biệt quan tâm, đặt vấn đề cần thiết phải chặn đứng nó lại. Trong nhiều cuộc họp của tỉnh, của trung đoàn có mục phê phán thơ Hồ Vi. Thơ Hồ Vi bị cán bộ lãnh đạo, tuyên huấn lên án gay gắt. Nào là tiểu tư sản lãng mạn, mất lập trường cách mạng, đầu độc tâm hồn chiến sĩ, làm nhụt ý chí chiến đấu của quân dân Thừa Thiên... vân vân và vân vân.
Năm đó, Trung đoàn chúng tôi đánh một trận phục kích lớn trên đường quốc lộ một Bắc Thừa Thiên. Ta thắng to. Đặc biệt trong trận phục kích này, có một cô nữ cứu thương người Pháp, tuổi chừng mười chín đôi mươi, trúng đạn chết nằm lẫn lộn giữa đám xác giặc. Cả người cô ướt sũng máu và bùn, nhưng vẫn đẹp như một thiên thần. Đôi mắt xanh biếc đã chết vẫn mở to, ngơ ngác nhìn lên bầu trời xa lạ vần vụ những lớp lớp mây chì... Lúc thu dọn chiến trường, không hiểu sao tất cả chúng tôi đều tránh nhìn cặp mắt xanh biếc ngơ ngác của cô. Riêng Hồ Vi, anh đã bế xác cô đặt lên chỗ mặt đường khô ráo, rồi lấy vạt áo quân phục rách tả tơi, lau sạch những vệt máu và bùn trên gương mặt trắng như nõn huệ và trên mái tóc màu bạch kim của cô...
Các nhà thơ nổi tiếng của tỉnh, của trung đoàn như Hải Bằng, Tấn Hoài, Hoàng Thượng Khanh... đều làm thơ về cái chết của cô và cùng lấy đầu đề: Cô nữ cứu thương người Pháp. Theo dư luận của chiến sĩ thì bài thơ của Hải Bằng hay nhất. Nhưng bài thơ của Hồ Vi được đăng trên báo Giết giặc. Báo vừa in xong, chưa kịp phát hành, thì bài thơ được dán chồng lên một bài văn xuôi tường thuật sự thắng lợi dòn dã của trận đánh, kết quả hùng hồn của đợt rèn cán chỉnh quân... Tuy vậy, số báo này cũng chỉ được phát hạn chế, từ cấp chính trị viên đại đội trở lên.
Tôi làm liên lạc của đơn vị trinh sát. Tôi chạy vào “xê ka” 5, nơi tòa soạn báo Giết giặc đóng. Tôi chờ lúc các anh tòa soạn sơ hở, xoáy được tờ báo cấm kị đó, dắt luôn vào cạp quần. Tôi chạy một mạch ra thẳng bờ sông Ô Lâu, tìm một chỗ bờ sông thật khuất vắng, ngâm từ báo xuống nước. Chờ cho hồ dán đủ thì giờ ngấm nước, tôi cầm tờ báo chui vào một bụi lau sậy rậm rì, nhẹ nhàng, cẩn thận bóc bài văn xuôi dán chồng lên bài thơ. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài thơ giữa tiếng gió thổi lau lách xào xạc trên đầu và tiếng con sông Ô Lâu chảy lúc khoan lúc nhặt dưới chân...
Từ hôm đó đến nay, hơn bốn mươi năm trôi qua, bài thơ chia làm nhiều khổ ngắn dài, tôi chỉ còn nhớ được một khổ:
...Nhìn mái tóc bạch kim em
Ướt sũng máu và bùn
Đôi mắt Vệ Quốc quân anh nước mắt lưng tròng
Hoà bình tặng em một nhành hoa tím ngát
Chiến tranh tặng em một viên đạn súng trường
Ơi người em gái Pháp nữ cứu thương!...
Tôi ngồi khóc lặng lẽ, nước mắt giọt ngắn giọt dài rớt xuống bài thơ ướt đẫm nước sông Ô Lâu mà tôi cầm khư khư trong tay. Và mười sáu tuổi đầu, lần đầu tiên tôi được nếm cái vị mặn chát kinh người của chiến tranh qua bài thơ của Hồ Vi.
Cùng với Hải Bằng (ngày đó anh còn lấy biệt hiệu là Văn Tôn) bài thơ Cô nữ cứu thương người Pháp bị cán bộ lãnh đạo đưa ra mổ xẻ, phân tích, phê phán nặng nề. Nó được coi là điển hình của sự dao động, sự mất lập trường kháng chiến. “Bây giờ thì anh ta khóc thương kẻ thù, rồi sẽ có ngày anh ta đi hẳn với kẻ thù”. Người ta đã kết luận về Hồ Vi như vậy.
Hoạ vô đơn chí, ngoài cái tội thơ, Hồ Vi còn bị kết tội hủ hoá - một cái tội xấu xa nhất đối với những người lính chúng tôi hồi đó. Nó xấu xa đến nỗi người ta phải gọi chệch là tội “hát-đúp” để nó bớt đi cái vẻ trần trụi đê tiện.
Đầu đuôi cái tội “hát-đúp” của anh là thế này:
Sống ở chiến khu, do quá thiếu thốn tình cảm gia đình, chúng tôi bày ra trò nhận anh nuôi, chị nuôi, mẹ nuôi, em nuôi... Tôi cũng có một bà mẹ nuôi và một ông anh nuôi. Hồ Vi nhận chị nuôi là chị Hoài Trinh, y tá bệnh viện chiến khu. Chị Hoài Trinh lớn hơn anh chừng ba, bốn tuổi, anh hăm hai, chị hăm sáu. Trước kia chị là hoa khôi trường nữ sinh Đồng Khánh. Tôi không còn nhớ rõ chị có đẹp thật không, chỉ nhớ là dáng người mảnh mai, gương mặt vàng võ vì đói ăn và sốt rét; cặp mắt chị to một cách kỳ dị, choán gần như hết nửa khuôn mặt và mái tóc chị dài đến chấm gót. Những anh chị cùng hoạt động bí mật với chị ở nội thành Huế kể rằng: chị thường giấu truyền đơn, kíp nổ, cả lựu đạn nữa, vào búi tóc tiếp tế cho các đơn vị biệt động ở nội thành.
Nhận chị em nuôi được ít lâu, anh Hồ Vi và chị bỗng đâm ra yêu nhau. Hai người cố giấu mối tình mà chính họ cũng cảm thấy “vụng trộm”. Nhưng họ càng giấu, càng lộ. Chẳng mấy chốc cả chiến khu đều biết mối tình “bất chính” của hai chị em nuôi. Nghiêm trọng hơn, người ta đồn là “cô y tá chị nuôi đã có mang với nhà thơ em nuôi”. Cả chiến khu đổ dồn vào phê phán tội lỗi của hai người. Mấy người cán bộ chính trị, cán bộ tuyên huấn thì hằn học mỉa mai: “- Cũng gia do ba cái thứ thơ tiểu tư sản, mất lập trường, ơi em gái Pháp nữ cứu thương, mà ra hết!”.
Chỉ riêng tụi liên lạc trinh sát con nít chúng tôi thì hoang mang, ngơ ngác. Chúng tôi không biết nên ủng hộ hay nên chống mối tình của hai người. Chúng tôi chỉ thấy thương cả hai, và tìm đủ mọi cơ hội để tỏ với anh chị tình thương đó.
Mỗi lần chúng tôi chạy liên lạc vào các cơ quan đóng sâu trong núi, đều tạt vô bệnh viện thăm chị, ấp a ấp úng hỏi chị: “Chị có nhắn chi ra “xê-ca-một” không?” (“Xê-ca-một” có nghĩa là anh Hồ Vi). Thằng Mừng hay hỏi: “Chị có ra sông Ô Lâu giặt áo quần không, em bưng giúp chị?”. Chị kéo cái đầu bù rối khét lẹt mùi nắng và mùi tanh trốc đầu của nó vào lòng, ôm rất lâu. Cặp mắt to mênh mông của chị bỗng ướt nhoè như xông phải khói cay...
Tụi tôi, thằng Hiền, thằng Bồng-da rắn, thằng Châu-sém mỗi lần về đồng bằng trinh sát, trở về chiến khu đứa thì mang cho anh mảnh giấy trắng, cuốn vở học trò, đứa thì cái bút máy Cao lô, lọ mực Pake... để anh viết thơ. Những thứ này chúng tôi xin được của mấy chị hàng xén ở các chợ quê vùng hậu địch. Anh cất tất cả vào cái túi dết vải đà mà chúng tôi đều biết của chị Hoài Trinh khâu tặng anh. Anh nói: “Khi mô anh trở thành nhà thơ thiên tài như Rem-bô thì anh mới dám dùng giấy mực bút các em cho”.
- Rem-bô là cái ông mô rứa? - chúng tôi hỏi.
- Ông ấy người Tây, chỉ mới bằng tuổi các em mà thơ ông đã lừng danh thế giới, - anh nói.
Thằng Bồng-da rắn bỗng đưa ra một ý kiến ngộ nghĩnh: “- Lỡ cái ông ấy cũng vô lính Lê dương qua đây đánh mình, bị quân mình bắn chết trong trận Câu Nhi - Đồng Lâm thì uổng quá anh hè?”. Anh Hồ Vi xoa xoa đầu nó, cười: “Thiệt may! Ông ấy đã chết cách đây gần trăm năm rồi”.
Chúng tôi nghe lỏm các anh lớn bàn tán: trên quyết định sẽ bố trí đưa chị Hoài Trinh ra vùng tự do khu Bốn để học lớp y sỹ. Nhưng mục đích là để cách ly hai người khỏi phải dấn sâu thêm nữa “mối tình tội lỗi”... Cái tin này làm tụi con nít chúng tôi buồn lắm. Không hiểu sao chúng tôi đều có ý nghĩ: nếu vắng chị Hoài Trinh chiến khu sẽ vắng hẳn đi một nửa.
Nhưng chị chưa kịp ra khu Bốn thì đã phải vĩnh viễn nằm lại dưới chân một ngọn đồi xào xạc lau sậy bên bờ sông Ô Lâu.
Chúng tôi, những người lính dãi dầu trận mạc, đã chứng kiến biết bao nhiêu cái chết, nhưng chưa có cái chết nào để lại trong ký ức một ấn tượng kinh hoàng đến như cái chết của chị.
Sáng hôm đó, chiến khu vụt hừng nắng sau suốt mười ngày mưa thối núi thối rừng. Chị Hoài Trinh từ trong núi, nách cái rổ thưa đựng áo quần dơ, bên trên đậy chiếc chiếu cá nhân và tấm ni lông màu nõn chuối, đi ra sông Ô Lâu.
Ngày đó những người chiến khu chúng tôi, mỗi lần ra sông giặt giũ, không mang theo chậu hoặc xô (vì không có), mà mang cái rổ thưa và một tấm ni lông. Lót ni lông vào lòng rổ rồi múc đầy nước. Cái rổ thưa liền biến thành cái chậu giặt, tắm, nhẹ nhàng biết mấy, giản tiện biết mấy!
Con sông Ô Lâu dâng cao, nước đục ngầu, chảy xiết. Các coọng nước dọc bờ sông dốc đứng, quay trong tiếng rền rĩ, rên xiết vì phải làm việc quá sức.
Lán của đội Thiếu niên trinh sát chúng tôi nằm ngay bên lối mòn xuống bến sông. Các chị ở bệnh viện, bào chế, quân lương thích ra giặt giũ ở bến sông chúng tôi vì có một tảng đá lớn, bằng phẳng từ vách núi chồm hẳn ra mặt sông.
Lúc chị Hoài Trinh ngang qua lán, thằng Mừng đang ngồi trước bậu cửa học đánh vần trên từ báo Giết giặc. hắn ngửng lên chào chị, nói: “Khi mô chị trở vô bệnh viện, chị nhớ gọi em với, chị nghe”. “Em vô bệnh viện có việc chi?”. Hắn làm mặt nhăn nhó nói: “- Em bị ho... Chắc là ho lao chị ạ...”. Chị cười: “- Chị cho uống muỗng thuốc ho là khỏi thôi”. “Anh Tư-dát nói, ho lao phải uống hai muỗng mới khỏi”. Chị lại cười: “- Ư thì chị cho uống hai muỗng”.
Chẳng là ở chiến khu, tụi chúng tôi thèm đường quá. Thằng Hoà-đen là đứa đầu tiên nghĩ ra cái mẹo giả đò mắc bệnh ho, vô bệnh viện xin uống thuốc ho. Thuốc ho cũng ngọt gần bằng đường. Hắn phải lội bốn con suối, trèo ba dốc núi mới vô thấu bệnh viện, xin được một thìa canh thuốc ho, uống tại chỗ. Hắn về khoe ầm với cả đội: “Một muỗng thuốc ho cũng ngọt gần bằng nửa chén chè gạo của mụ Tào!”. Mừng hỏi: “Mi khai bệnh như răng mà các chị tin, cho mi uống thuốc?”. “- Tao khai mắc bệnh ho gà. Ho gà là bệnh ho nặng nhứt!”.
Ngay hôm sau thằng Mừng chạy vô bệnh viện khai với các chị y tá, hắn mắc phải bệnh ho gà rất nặng. Một chị y tá cười cười cầm chai thuốc ho rót một muổng, bắt hắn há miệng, ngửa cổ, cho uống luôn. Đúng là ngọt thật - hắn vừa liếm môi liếm mép ngẫm nghĩ - nhưng hơi chua chua. Chỉ tội muỗng thuốc chị rót lưng quá, hắn tị nạnh: “Thằng Hoà-đen cũng mắc bệnh ho gà như em, mà hắn khoe chị cho uống cả một muỗng đầy...”. Chị y tá lại cười, nói: “- Tại em chưa mắc phải bệnh ho gà, em chỉ mới ho vịt. Ho vịt chỉ cần uống nửa muỗng là lành”. Mừng ấm ức chạy về đội kể lại với Tư-dát. Tư-dát ôm bụng cười ngất. Hắn liến láu nói: “Tại mi ngu. Mi phải khai là ho lao. Ho lao còn nặng gấp mấy ho gà. Nhất định các chị phải cho mi uống hai muỗng đầy! Chưa chừng còn cho mi thêm cả một ve đem về cho đội uống dần!”.
Sáng hôm đó chiến khu hửng nắng. Thằng Mừng xắm nắm định lội rừng vô bệnh viện để khai mình mắc bệnh ho lao... Không ngờ lại gặp chị Hoài Trinh, hắn mừng rơn. Hai muỗng thuốc ho coi như cầm chắc. Hắn ngồi trước bậc cửa để cùng vô bệnh viện với chị. Hắn đã đánh vần hết cả tờ báo Giết giặc mà vẫn chưa thấy chị lên. Hắn thắc mắc chị giặt chi mà lâu rứa, hè... Hắn gấp tờ báo, dắt cạp quần, rồi đi xuống bến sông. Bến sông vắng tanh. Chỉ thấy rổ áo quần với chiếc chiếu vắt ngay miệng rổ, để trên tảng đá gần mí nước. Hắn đoán chừng chị đi việc riêng, ngồi khuất sau bụi cây mô đó. Hắn kiên nhẫn đứng chờ. Chờ mãi không thấy chị bước ra, hắn liền gọi toáng lên. Chỉ có tiếng lau lách xào xạc trả lời hắn. Hắn chợt nhìn thấy tấm ni lông màu nõn chuối bị những miệng nước xoáy dưới chân tảng đá, quay tròn như chong chóng, lúc chìm xuống lúc nổi lên... Hắn lập tức hiểu ra. Như bị ma đuổi, hắn chạy ngược lên dốc bến, miệng la thất thanh: “- Chị Hoài Trinh chết trôi! Chị Hoài Trinh chết trôi!”.
Chỉ mười phút sau, các anh lớn, bọn nhóc trinh sát chúng tôi đứng chen chúc trên tảng đá để rổ áo quần. Anh Hồ Vi về đồng bằng công tác hai hôm trước đó.
Chúng tôi, các anh lớn, cởi quần áo, nhảy ào xuống sông, hụp lặn, mò tìm xác chị.
Chúng tôi mò tìm cho đến lúc mặt trời gần lặn, vẫn không thấy tăm hơi xác chị...
Chiều hôm sau. Thằng Bồng-da rắn đi bám đường quốc lộ trở về, hắn ở dưới đó đã ba hôm nên không biết chuyện chị Hoài Trinh chết đuối. Hắn kiếm được một cục xà bông thơm, hí hửng đem về để biếu chị.
Hắn chọn quãng sông phía bờ chiến khu có một coọng nước quay để lội qua, vì quãng này đồng bào đắp thành cái đập đá để dồn sức nước vào coọng. Hắn cởi áo quần đội lên đầu, mắt chăm chú nhìn xuống dòng nước chảy xiết tìm những chỗ đá ít rêu để đặt chân khỏi trượt ngã. Lội ra đến gần giữa sông, hắn chợt ngửng lên. Miệng hắn há hốc, đứng gần như chết lặng giữa dòng nước ào ào chảy quanh người. Cái coọng nước đường kính đến sáu bảy mét, quay kẽo kẹt nặng nề, kéo từ từ dưới vực nước lên một cái đầu phụ nữ tóc ướt sũng quấn chặt vào cái gióng tre ngang. Khuôn mặt người chết trôi trắng bợt như bụng cá chết nhưng hắn vẫn nhận ngay ra chị Hoài Trinh. Coọng nước nhấc từ từ cả người chị lên khỏi mặt nước, đưa lên cao, lên cao mãi, như treo lủng lẳng giữa bầu trời chiều chiến khu đầy sương mù, rồi đổ dần về phía bên kia.
Hắn hét lên một tiếng thất thanh, liệng bộ áo quần rách như tổ đỉa có gói cục xà bông thơm xuống nước, bương rẽ nước nhào tới, chụp lấy một cái gióng ngang định rị giữ coọng nước lại, không cho nó dìm tiếp chị theo đà quay...
Nhưng cái coọng nước coi hắn chẳng khác nào một cái cọng đu đủ, nhẹ nhàng kẽo kẹt từ từ nhấc hắn lên khỏi mặt nước và đưa mãi lên cao. Ngợp quá hắn phải buông tay nhảy vội xuống vực sông. hắn bơi vào bờ, chạy lên trạm gác tiền tiêu của chiến khu nhờ các anh lớn tiếp cứu, rồi chạy lên lán đội trinh sát gọi chúng tôi.
Sức quay cái coọng nước mạnh khủng khiếp. Cả một tiểu đội vừa người lớn vừa con nít, bám vào các gióng ngang gióng dọc mới giữ nó lại được. Một anh cố hết sức gỡ tóc chị khỏi các gióng tre để lấy xác chị ra, nhưng không tài nào gỡ nổi. Mái tóc chị dài quá, quấn ngang quấn dọc như đánh đai vào coọng nước. Hết sách, anh phải dùng thanh mã tấu cứa, chặt, đứt mái tóc đẫm nước đen như huyền của chị...
Chúng tôi đào huyệt chôn chị giữa đám lau sậy xạc xào đổ dốc xuống bờ sông Ô Lâu, cùng với rổ áo quần ướt và chiếc chiếu.
Hai hôm sau, anh Hồ Vi mới từ đồng bằng công tác trở về.
Chúng tôi chạy ra đón anh ở đầu dốc núi đi vào trạm gác tiền tiêu. Chúng tôi tranh nhau kể chị Hoài Trinh chết như thế nào, mò xác chị ra sao, cảnh tượng rùng rợn coọng nước quấn chặt tóc chị xách cả người chị đưa từ từ lên trời rồi lại từ từ dìm chị xuống nước, cảnh dùng mã tấu cứa, chặt mái tóc dài của chị quấn chặt vào các gióng tre coọng nước...
Chao ôi, chúng tôi ngu dại quá. Chúng tôi đâu có biết kể tỉ mỉ như vậy là chọc ngoáy vào vết thương đang xối xả máu trong lòng anh.
Chúng tôi tưởng anh sẽ khóc lịm. Nhưng thật lạ lùng, hai mắt anh ráo hoảnh! Anh đứng bất động như vụt hoá đá, cặp mắt mở trừng trừng nhìn chúng tôi, không nói, không rằng. Ánh mắt anh làm chúng tôi sợ phát run, bất giác lùi cả lại, bước dạt ra hai bên. “Chôn chị ở mô?” - anh bật hỏi, gần như thì thầm. Chúng tôi kéo nhau chạy trước, dẫn anh ra mộ chị. Hai chân anh như bị đốn, cả người anh ngã sụp xuống bên nấm đất đắp tròn còn in rõ những dấu xẻng. Anh khoát khoát tay, nói với chúng tôi gần như van lơn: “- Các em về hết cả đi! Về hết cả đi!”.
Anh ngồi cùng mộ vợ suốt cả đêm hôm đó. Rồi sau đấy, chiều nào anh cũng mang bát cơm chan nước ruốc khẩu phần của anh ra mộ, chắc là để cúng vợ trước khi ăn... Có đêm anh ngủ luôn ngoài đó không thấy về lán. Chỉ ít lâu sau người anh rạc hẳn đi, chỉ còn mắt với răng.
Một hôm, tôi về đồng bằng công tác. Lúc trở lên chiến khu, tôi tạt vào cái miếu gọi là Miếu Cô ở đầu làng, xin ông cụ thủ từ trông coi miếu một thẻ hương. Tôi mang thẻ hương về chiến khu, lẳng lặng đặt cạnh cái mền trấn thủ của anh ở sạp nằm góc lán. Tôi đâu có ngờ cái thẻ hương này đã giết anh.
Trước đó hai hôm, có tin của trinh sát, bọn giặc tập trung quân chuẩn bị đánh phá chiến khu. Công binh, các đơn vị trực chiến, chôn mìn, gài lựu đạn dọc các lối mòn chuẩn bị chống giặc. Nhưng rồi có tin về bọn giặc càn ba huyện phía nam. Công binh tháo mìn, gỡ lựu đạn, giải toả các lối mòn.
Buổi chiều, anh Hồ Vi cầm nắm hương của tôi, đi ra mộ vợ. Trời xui đất khiến gì không biết, anh đi vào cái lối mòn vừa tháo gỡ mìn, lựu đạn. Anh vấp phải trái lựu đạn gài gỡ sót. Cả hai chân anh đều bị thương, dập nát đến đầu gối. Chắc anh khát nước vì mất quá nhiều máu, anh bò lết xuống bến sông, đúng cái bến mà chị Hoài Trinh chết đuối. Chúng tôi tìm thấy xác anh nằm vắt ngang trên tảng đá, đầu và hai vai ngập chìm trong nước. Hai tay anh bíu rất chắc vào gờ đá nên mới không tuột xuống sông.
Chúng tôi đào huyệt sát mộ chị Hoài Trinh, chôn anh, xác bọc trong tấm vải bạt áo súng.
Bọn giặc tấn công chiến khu Hoà Mỹ và bao vây nhiều ngày. Chúng tôi rút vào chiến khu Dương Hoà.
Khoảng hơn một năm sau, tiểu đội tôi đi công tác ngang qua Hoà Mỹ. Các lối mòn lau lách mọc phủ kín, cao lút đầu người. Chỉ mới hơn một năm mà vùng chiến khu cũ trở nên hoang vu đến rợn người. Chúng tôi đi dọc bờ sông Ô Lâu bạt ngàn lau trắng, vạch cỏ, rẽ gai tìm suốt buổi mà không thấy mộ hai người. Lau lách, cỏ dại đã nuốt chửng cả hai...

Từ khi tôi rời cây súng nối nghiệp anh làm thơ. Rồi vì thơ mà sa vào cảnh chìm nổi gian truân suốt ba chục năm trời. Trong ba mươi năm đó, tôi thường hay bất chợt nhớ đến câu nói kỳ dị của anh Hồ Vi bên bếp lửa chiến khu năm nào: “Một trăm là Trung đoàn, còn lẻ một là nhà thơ Hồ Vi đấy”.
Thế rồi dần dần tôi vỡ lẽ ra, câu nói kỳ dị của anh chính là sấm ngữ về số phận những ai lỡ mang lấy nghiệp thơ vào thân...
Tôi thường kể câu chuyện trên với bạn hữu và vui miệng nói thêm: “Hồ Vi là nhà tiên tri tầm cỡ đại đội...”.
Chép lại bên bờ Hồ Tây - mùa đông năm 1994
P.Q

(nguồn: TCSH số 159 - 05 - 2002)

Các bài mới
Các bài đã đăng