| Trong cái trường thơ hỗn mang đó, Nguyễn Sĩ Cứ có muốn trở thành một nhà thơ hay không? Anh dè dặt như một kẻ biết điều. Anh lặng lẽ như một người chiêm ngẫm. Anh sợ hãi như một chàng trai tân vừa chạm tình trường: “Ngực ai rờn rợn chạm nơi tay”...
 Còn nhớ ba năm trước, Nguyễn Sĩ Cứ đưa tôi 30 bài thơ nhờ đọc xem có in thành tập được không. Đã tuổi “tri thiên mệnh” mà trong tay có 30 bài thơ thì quả là quá ít so với gia tài thơ của bao người làm thơ khác; nhưng nếu in thành tập thì 30 bài kể cũng hơi nhiều. Tập Đầu súng trăng treo của Chính Hữu chỉ có 20 bài mà làm cho các nhà văn học sử không bao giờ dám bỏ sót tên tuổi của nhà thơ. Tôi đọc 30 bài thơ của Cứ, phân vân mãi, cuối cùng bảo anh nên đợi một thời gian xem có thêm được một số bài nữa không? ý tôi muốn tập thơ cần có thêm một sức nặng về chất, nghĩa là phải gây được ấn tượng riêng mạnh hơn nữa. Cứ nghe tôi nói, hơi hẫng một giây, rồi anh im lặng. Ba năm sau, tập bản thảo thơ của anh đã dày gấp rưỡi. Những bài thơ mới đã đến độ “chín tới”, với những xót đắng của yêu thương và chiêm nghiệm:
 
 Cái cây trước nhà bị chặt
 Ra giêng chim lại tìm về
 Bơ vơ đánh rơi tiếng hót
 Tiếng hót loang dài mặt đê
 Sang năm rồi sang năm nữa
 Hết cây, chim chẳng tìm về
 Chim hót trong băng cát-xét
 Tiếng chim bán đầy chợ quê.
 (Tiếng chim)
 
 Trong lời vô ngôn
 nỗi niềm
 vỡ tung
 ngực khát
 em nói yêu tôi
 ngoài tầm thể xác
 
 nhưng có khi
 cơn mưa tôi
 không dịu em
 cơn khát
 chính là điều bất hạnh
 vô ngôn.
 (Vô ngôn)
 
 Thơ Nguyễn Sĩ Cứ đa cảm, đa nghĩ. Những hồi nhớ quá khứ bám đuổi, cật vấn. Những chiêm nghiệm thực tại xoáy lật, róng riết. Những yêu thương rạo rực trong kìm nén. Và vì thế, thơ anh mang chứa nỗi buồn buốt nhói khuất ẩn – một nỗi buồn chìm. Cái nỗi buồn mà nếu không có nó, thơ sẽ trơ ra xác chữ.
 Nỗi buồn trong thơ Nguyễn Sĩ Cứ là nỗi buồn chia sẻ với những bất hạnh ở đời. Kể cả khi anh cất lên cái giọng tưng tửng của “kẻ thích đùa” thì đấy cũng là cái giọng đùa ra nước mắt:
 
 giấc mơ mùa đói đàn chim thiên di
 giấc mơ mùa no vỗ cánh dậy thì
 giấc mơ mồ côi có giày để đánh
 giấc mơ mùa lính cắt sốt đại ngàn
 giấc mơ mùa quan chan chan bổng lộc
 giấc mơ mùa học không có dạy thêm
 giấc mơ mùa em đường cong mỹ mãn
 giấc mơ mùa hạn nước đầy phù sa
 giấc mơ không mùa mùa không mộng mị...
 (Mơ mùa)
 Đôi lúc, Nguyễn Sĩ Cứ muốn thoát khỏi những con chữ quen thuộc để chuyển tải tư duy của người thơ hiện đại. Sau khi kiểm lại thế kỷ “Người nghèo kiếm ăn chân trời góc bể/ Người giàu phát minh món lạ nhậu chơi”, anh như rơi vào miền không trọng lượng:
 đêm,
 chùm sao rụng
 hố đen khép
 vũ trụ đầm đìa
 giấc mơ
 toát mồ hôi lạnh
 
 bảnh mắt,
 nhét giấc mơ vào họng
 sửa soạn bộ mặt kiếm cơm
 giành giật với cả chính mình
 
 đêm,
 những linh hồn vô định
 vẫn bền bỉ kiếm tìm
 chốn ẩn cư
 miền lạ.
 (Nghe đêm)
 
 Nhưng có lẽ sự bền bỉ kiếm tìm nhất trong thơ anh là món nợ quá vãng, món nợ với những người mẹ, người lính suốt thời chiến tranh dai dẳng:
 Miền Trung là ai?
 Tôi nhìn người mẹ
 hoá đá vẫn khăn tang
 (Miền Trung nhớ bạn)
 
 Tuổi xanh muối bạc vầng tóc mẹ
 bạn không về
 chống gậy
 mẹ xuôi tay
 nén nhang cháy cong hình dấu hỏi
 trước nấm mồ tôi người có lỗi
 (Dấu lặng 2)
 
 Nếu ngày đó mảnh bom to chút nữa
 Hồn ta giờ chắc hẳn cũng phiêu diêu
 ......
 Nên mỗi lần vào dịp này, tháng Bảy
 Ta khóc người, người hỡi có biết không?
 (Nhớ bạn)
 
 Nguyễn Sĩ Cứ không chỉ bị ám ảnh về cuộc chiến khốc liệt mà chính anh là một người lính. Ngay cả những huyền tích lịch sử đầy bi hùng của dân tộc trong lịch sử cũng hiện lên trong thơ anh như là vẫn còn ở sát gần đâu đó quanh cuộc đời này. Một Đêm Bạch Đằng “trong chiến thuyền cháy/ áo máu chiến binh/ nhuộm rực tà dương”, một An Dương Vương “ôm hận xuống cửu tuyền”  “gửi lại trời xanh câu hỏi lớn không lời”, một Loa Thành “con ốc biển khổng lồ/ hội tụ nghìn cơn bão/ một đêm phản trắc hiện hình”...  đều là những ám ảnh không nguôi của người thơ đã mặc áo lính  một thời. Những ám ảnh không dễ gì xoá nổi.
 
 Dù người ta có muốn trở thành nhà thơ hay không, thì khi làm thơ, người ta vẫn bộc lộ cái bản chất sâu thẳm trong tâm hồn mình. Đọc thơ ấy, người ta nhận ra anh qua tâm hồn ẩn chứa trong từng câu chữ. Nguyễn Sĩ Cứ là một con người cả nghĩ và chân thực. Một con người không chỉ có trách nhiệm với chính mình mà còn có trách nhiệm với cả nỗi đau, niềm lo của người khác:
 
 Mẹ em phơi củi
 Em phơi sách
 Đời mẹ đời con phơi giữa trời
 Mang mang ngầu lạnh phên hồng thuỷ
 Làng trôi ra biển
 Sao nghèo không trôi?
 (Phơi)
 
 Tháng Ba ra phố
 Chợt tiếng khẩn nài:
 “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại”
 Nhận ra giọng nói làng mình
 Tháng Ba..
 như người mất máu.
 (Tháng Ba)
 
 Một người thơ  có nỗi đau buốt nhói tưởng như quá tỉnh, lại đôi lần để lộ “gót Asin” của đam mê:
 Em đi áo tím qua cầu
 Nhuộm ta tím cả sắc màu Huế thơ
 (Với Huế)
 
 Ta về uống nắng thành cây
 Uống hương thành gió
 Uống say thành lời.
 (Lại về cùng Huế)
 
 Mắt huyền trời ạ, đừng lúng liếng
 Kẻo mà...
 chết đuối cả Mùa Thu.
 (Mùa cổ điển)
 Để rồi nhận ra một sự thật trong một nỗi buồn say:
 Thế là
 khô khát và...
 Mưa
 Thế là
 son phấn dối lừa và...
 Em
 Thế là
 sao ướt và...
 Đêm
 Thế là
 trăng rớt xuống thềm và...
 Say.
 (Say)
 Và có lúc thốt ra tự bạch như một người phẫn chí:
 Đời người mấy trận mưa chan
 Mấy phen nắng lửa thì tàn cuộc chơi?
 Thà về đếm hạt mưa rơi
 Và nghe cỏ hát những lời vô vi
 (Tự khúc)
 
 Ấy là lúc anh muốn thoát ra ngoài những đua chen phù du nơi trần thế? Nhưng cuộc đời thì vẫn thế, như quả đất vẫn chẳng ngừng xoay. Và con người vẫn phải vật lộn với cả chính mình, cho đến lúc nhận ra:
 Cuộc phù thế chỉ như là đám bụi
 Rồi cũng ba thước đất dưới cỏ mềm.
 (Cuộc phù thế)
 
 Thế kỷ này chúng ta chạy như điên
 Vẫn hướng đích đám côn trùng dưới cỏ.
 (Côn trùng)
 
 Nguyễn Sĩ Cứ đã đẩy sự chiêm nghiệm đến chân tường để nhận chân cuộc sống. Và cuối cùng, anh đã gửi lòng mình vào câu thơ tưởng nhớ một nhà thơ đàn anh mà anh vô cùng quý trọng:
 Người đi...
 Trang viết neo lòng
 Câu thơ để lại trắng trong đời mình.
 (Nhớ nhà thơ Phùng Quán)
 
 Hình như khi làm thơ, Nguyễn Sĩ Cứ cũng hướng tới điều đó. Hướng tới điều Chân, điều Thiện, điều Trắng Trong ở cõi lòng mình. Và thơ anh đã phần nào đảm trách được điều anh hướng tới. Thơ ấy có thể in thành tập để lưu lại cái phần hồn của người thơ, dù anh có muốn trở thành thi sĩ hay không.
 Hà Nội, chớm Thu 2005
 N.T.T
 (199/09-05)
 |