Hoàng Phủ Ngọc Tường viết nhiều thể loại thơ, truyện, nhàn đàm nhưng sở trường là bút ký. Nhà văn Nguyễn Tuân nhận xét: Ký của Hoàng Phủ Ngọc Tường có “rất nhiều ánh lửa”. Nhiều người đã đề cập đến chất hiện thực, chất thơ, chất trữ tình, chất trí tuệ... trong những thiên bút ký nổi tiếng của Hoàng Phủ, như: Ai đã đặt tên cho dòng sông, Rừng hồi, Hoa trái quanh tôi... Nhà văn đi nhiều nơi, viết về nhiều vùng đất nhưng có thể khẳng định những trang viết đặc sắc nhất là những trang viết về Huế - nơi nhà văn từng gắn bó hơn bốn mươi năm nay. Thiên bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông của anh khái quát: thiên nhiên Huế, con người Huế, văn hoá Huế... đã được chọn trích giảng trong chương trình Ngữ văn PTTH. “Phải là sự tương giao, đến mức hòa quyện chặt chẽ mới sinh ra được những áng văn tài hoa không dễ một lần thứ hai viết được như thế” (Phạm Xuân Nguyên).
Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là tác giả của một số bài thơ được nhiều người ưa thích. Thơ Hoàng Phủ ẩn chứa những suy tư, triết lý về nhân sinh. Hoàng Phủ Ngọc Tường thường day dứt nhớ về quá khứ, nghĩ về sự mong manh của kiếp người. Thơ Hoàng Phủ vì thế bàng bạc một nỗi buồn khó tả: Có buổi chiều nào như chiều nay/ Căn phòng anh bóng tối dâng đầy/ Anh lặng thầm như là cái bóng/ Hoa tàn một mình mà em không hay (Dạ khúc); Những chiều Bến Ngự giăng mưa/ Hình như ai đó mới vừa gọi tôi/ Tôi ra mở cửa đón người/ Chỉ nghe tiếng gió ở ngoài hành lang (Địa chỉ buồn); Thời gian sao mà xuẩn ngốc/ - Mới thôi, đã một đời người (Dù năm dù tháng)...
Sau cơn bạo bệnh (1998), mặc dù phải nằm liệt giường, Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn không đầu hàng số phận. Nhà văn vẫn viết và ra sách đều đặn. Anh có một nghị lực phi thường, một trí nhớ tuyệt vời. Cho đến nay, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xuất bản 9 tập truyện và ký, 2 tập thơ, 2 tập nhàn đàm. Anh nhận nhiều giải thưởng văn học có giá trị: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980 với tác phẩm Rất nhiều ánh lửa. Tặng thưởng văn học Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 1999. Giải A giải thưởng Văn học Cố đô của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và Hội VHNT Thừa Thiên Huế. Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.
MAI VĂN HOAN giới thiệu
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Ai đã dặt tên cho dòng sông (trích)
Hương ơi, e phải mày không? Sông nọ hoá ra mình có. PHAN BỘI CHÂU
Xuân hạ thu đông tôi vẫn thường lên thăm vườn An Hiên của chị Tùng ở Kim Long. Khu vườn xưa cổ sầm uất, mùa nào cũng có những loài hoa đang nở, những trái cây đang chín, nhưng luôn tỏa sáng thần thái yên tĩnh và khoáng đạt, giống như một tự do nội tâm. Ngày xưa, Nguyễn Du đã sống rất lâu ở vùng này, và bây giờ, trước sân nhà chị Tùng vẫn toả bóng một cây hồng cổ, giống hồng Tiên Ðiền nổi tiếng mà chính cụ Nghè Mai, cháu nội cụ Nguyễn Du đã tặng cho gia đình chị. Mùa thu tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mặt ra sông ăn những trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan thành dư vang của một tiếng chim. Tôi đọc sách trong trạng thái vừa thích thú vừa lơ đãng, miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không ngừng dưới ánh nắng và trong mùi hương trốn tìm của hoa trái trong vườn. Chính trong những giờ phút bồng bềnh giữa cõi thực và cõi thơ ấy, tôi đã cảm nhận ra cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trên mỗi trang Truyện Kiều: dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết... Một trăm năm mươi năm, (rồi nữa ba trăm năm sau), nhà thơ đã qua đời, mà vẫn trời ấy, vẫn đất ấy, cỏ hoa vẫn y nguyên quanh chỗ tôi ngồi. Thiên nhiên của mảnh đất Kinh xưa đã để lại một cái bóng mông lung nhưng rất dễ nhận ra trong thơ Nguyễn Du. Ngược lại, chính sông Hương và thành phố của nó vẫn gợi cho tôi, như một vang bóng trong thời gian, hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều: tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc, và cả hai cùng gắn bó với nhau trong một tình yêu muôn thuở.
Trong những dòng sông đẹp ở các nước mà tôi thường nghe nói đến, hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.Giữa lòng Trường Sơn, sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái di-gan phóng khoáng và man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng. Nhưng chính rừng già nơi đây, với cấu trúc đặc biệt có thể lý giải được về mặt khoa học, đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở. Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó mà dòng sông hình như không muốn bộc lộ, đã đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khoá trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng.
Phải nhiều thế kỷ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó.Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam - bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây - bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông - bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột khởi như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lưu Bảo mà từ đó, người ta luôn luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé vừa bằng con thoi. Những ngọn đồi này tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây- nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” như người Huế thường miêu tả. Giữa đám quần sơn lô xô ấy, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, và niềm kiêu hãnh âm u của những lăng tẩm đồ sộ toả lan khắp cả một vùng thượng lưu “bốn bề núi phủ mây phong - mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Ðó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lý, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà...
Từ đấy, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non.Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một nhánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa-ri, sông Ða-nuýp của Bu-đa-pet; sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Ðầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương toả đi khắp phố phường với những cây đa, cây cừa cổ thụ toả vầng lá u sầm xuống xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi đi qua thành phố đã trôi đi chậm, thật chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê-nin-grát, có lúc đứng nhìn sông Nê-va cuốn trôi những đám băng lô xô nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; mỗi phiến băng chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê-tec-xbua cũ để ra bể Ban-tích.Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính Lê-nin-grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hoá làm một con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thuỷ tinh để đi ra biển. Tôi cuống quít vẫy tay, nhưng sông Nê-va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hy Lạp tên là Hê-ra-cơ-lít, đã khóc suốt đời vì những dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi; chợt thấy quí điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Ðấy là điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.
Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Ðã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu và từ đó những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều, “trong như tiếng hạc bay qua/ đục như nước suối mới sa nửa vời”... Ðến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Ðó chính là Tứ Ðại Cảnh!”.
Rời khỏi Kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vỹ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông- tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Ðối với Huế, nơi đây chính là chỗ chia tay dõi xa ngoài mười dặm trường đình. Riêng với sông Hương, vốn đang xuôi chảy giữa cánh đồng phù sa êm ái của nó, khúc quanh này thực bất ngờ biết bao. Có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người ở đây; và để nhân cách hoá nó lên, tôi gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu.Và giống như nàng Kiều trong đêm tình tự, ở ngã rẽ sông này, sông Hương đã chí tình trở lại tìm Kim Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả: “Còn non - còn nước - còn dài- còn về, còn nhớ...” Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hoá xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.
“Dòng sông và những đầm phá của nó, những dòng kênh uốn lượn qua thành phố cùng với tư thái của những ngôi nhà nằm giữa những khu vườn xanh tươi, tất cả mang lại cho Huế một vẻ trong sáng đầy thư thái, dành riêng cho cảm hứng nghệ thuật và tri thức. Huế đã là và vẫn còn là một trung tâm của nền văn hoá Việt ... Vẻ đẹp của Huế và lịch sử mà nó làm chứng, đã ban cho thành phố Huế mang một sức hấp dẫn về văn hoá và du lịch có tầm quốc gia và quốc tế”. Không phải là một đoạn văn, đây là một văn kiện chính xác của Liên Hiệp Quốc, do Ban thư ký của UNESCO soạn, đăng trên tạp chí “Di sản văn hoá”, số mới đây. Tuy nhiên, tôi đã đọc nó với sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn: qua đây, tôi thấy hiện bóng khuôn mặt tươi trẻ và quyến rũ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới hiện đại. Người ta đã nhìn khắp trái đất, và đã không quên được nó, dòng sông Việt nhỏ nhắn chỉ dài gần một trăm ki-lô-mét từ nguồn đến biển...
Hiển nhiên là sông Hương đã sống những thế kỷ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử của nó, từ thuở nó còn là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng. Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc Ðại Việt qua những thế kỷ trung đại.Thế kỷ XVIII, nó vẻ vang soi bóng Kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.Cùng với sự cổ vũ nồng nhiệt dành cho nó trong mùa xuân Mậu Thân, Huế đã nhận được những lời chia buồn sâu sắc nhất của thế giới về sự tàn phá mà đế quốc Mỹ đã chụp lên những di sản văn hóa của nó. “Các trung tâm lớn của chúng ta về lịch sử, văn hóa, học thuật và về chính quyền rất nhiều. Phải hiểu rằng Huế là một thành phố kết hợp tất cả những cái đó, giống như các thành phố Luân Đôn, Pa-ri và Béc-lin,...Một số trong các di sản đó đã bị phá hủy lúc Thành Nội Huế bị ném bom. Không thể so sánh sự mất mát này với sự mất mát của 1 viện bảo tàng hay 1 thư viện ở Mỹ. Sự phá hủy những di sản này cũng có tính chất giống như sự mất mát xảy ra đối với nền văn minh châu Âu khi một số công trình của nền văn minh Hi Lạp và La Mã cổ đại bị đổ nát vì các nhà thờ bị phá hoại”. Đó là sự đánh giá đầy phẫn nộ của chính người Mỹ, Ra-pha-en Li-tao-ơ, Noóc-man U-phốp và nhóm giáo sư Đại học Coóc-nen, trong một tác phẩm khoa học đầy mùi thuốc súng nổ và hóa chất độc mang tên “Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương”. Tháng trước, tôi được dịp có mặt trong cuộc tiếp đón ở Thành ủy Huế chào mừng đoàn đại biểu của Hội nghị tổng kết chiến tranh, tại thành phố. Thay mặt Quân ủy Trung ương, đồng chí Đại tướng phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”... Đồng chí nói, đầu cúi xuống ngực, hai bàn tay chắp lại trong cử chỉ kính cẩn của người già mắt ngấn lệ; và người nghe, tất cả đều lặng đi trong cảm xúc đột ngột của một lời thề.
Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự biến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Thỉnh thoảng, tôi vẫn còn gặp trong những ngày nàng đem áo ra phơi, một sắc áo cưới của Huế ngày xưa, rất xưa: màu áo lục điều với loại vải vân thưa màu xanh tràm lồng lên một màu đỏ ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện, thấp thoáng theo bóng người, thuở ấy các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng. Ðấy cũng chính là màu của sương khói trên sông Hương, giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông...
Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó: từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “dòng sông trắng- lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Ðà, từ tha thiết mơ màng nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh” trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bãng lãng trong hồn thơ bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả “Từ ấy”.
Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: - Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Huế, tiết Cốc vũ, 4 -1- 1981 H.P.N.T (245/07-09) |