R. M.Rilke là một trong những thi hào quan trọng nhất của dân tộc Ðức. Trong số các tư tưởng gia và thi nhân Ðức, tên tuổi ông đứng bên cạnh các đại thi hào Goethe, Schiller, Hölderlin. Cũng như những tác phẩm của H. Hesse, những bài thơ về Ðức Phật của R. M. Rilke đã được giới Phật tử trên thế giới truyền tụng từ lâu. Trong các thập niên từ 30-60 thế kỷ 20 và về sau, văn chương của Rilke được giới thức giả Việt Nam biết đến qua những tác phẩm dịch bằng tiếng Pháp. Với các bài thơ về Ðức Phật, Rilke đã xuất hiện trước giới trí thức Phật tử VN thời ấy như một “người Ðức trầm lặng”, nhạy cảm, tế nhị và khiêm cung. R. M. Rilke không phải là Phật tử, ông cảm hứng làm thơ về Phật. Ðọc 3 bài thơ về Phật, thoạt tiên ta có cảm giác ông đang đứng xa nhìn về một biểu tượng tôn giáo. Ông nhìn Phật như một người lạ hay một người “hành hương xa lạ” (Rilke, Buddha 2), cách xa, thoáng chút nghi hoặc, ngập ngừng, tò mò dò dẫm, còn thế tục, như thái độ tìm hiểu của một người Tây phương tầm thường, rồi chưa đầy một thoáng quay người, bỗng nhiên người ấy biến mất mà chỉ còn thi nhân đứng đó, tràn ngập cảm xúc và rung động của con tim trí tuệ: Rilke đã hiểu Phật, thấy, ngộ, lần theo “hướng của con tim” (Rilke, Briefe, ebd). Rilke gặp Phật trong tự tính sâu xa và hồn nhiên của ý niệm chân lý toàn diện nhân bản tại thế ấy. Chính thể nghiệm thi ca “tâm truyền tâm” này đã làm cho R.M. Rilke trở thành một khám phá mới cho sự liễu tri kinh nghiệm chứng ngộ trong Thiền học đối với các nhà Phật học Tây phương... THÁI KIM LAN (dịch và giới thiệu)
BUDDHA - ÐỨC PHẬT
Dường như Ngài đang lắng nghe. Tĩnh lặng: cõi xa… Ta dừng lại và không còn nghe im lắng Và Ngài là vì sao. Và những sao trời khác lạ, mờ mịt mắt trần, lũ lượt về quanh tinh đẩu sáng.
Ôi, Ngài là tất cả. Chân như đó, có phải ta chờ Ngài thấy ta? hay Ngài cần phải thấy? Thảng như nơi đây ta phủ phục trước Ngài, Ngài vẫn như loài thú hồn nhiên trầm sâu tự tại. Thế rồi điều dục ta dứt bỏ để tìm Ngài “cái ấy” từ triệu kiếp luân lưu trong thân Thế giải[i] Như Lai[ii], đấng xả bỏ những gì con người từng trải. Và đấng từng trải những điều khuyên người lầm lạc bỏ mê.
Rainer Maria Rilke, cuối năm 1905
Buddha
Als ob er horchte. Stille: eine Ferne… Wir halten ein und hören sie nicht mehr Und er ist Stern. Und andere große Sterne, die wir nicht sehen, stehen um ihn her.
O er ist alles. Wirklich, warten wir, daß er uns sähe? Sollte er bedürfen? Und wenn wir ihn hier vor ihm niederwürfen, er bliebe tief und träge wie ein Tier.
Dann das, was uns zu seinen Füßen reißt, das kreist in ihm seit Millionen Jahren Er, der vergisst, was wir erfahren, und der erfährt, was uns verweist.
Rainer Maria Rilke, Ende 1905
ÐỨC PHẬT TRONG HÀO QUANG – Buddha in der Glorie
Tâm của toàn Tâm, Nhân của Nhân Quả Hạnh Nhân - vừa viên thành, thấm ngọt Cái TẤT CẢ ấy vút đến sao trời muôn một Là xác thịt quả nhân: xin chào hân hạnh!
Hãy xem! Nơi thân này còn chi vướng bận, trong vô cùng là lớp vỏ ngoại thân và ở đó nhựa dâng đầy tràn ứ và bên ngoài ấp ủ ánh hồng quang
Bởi lẽ trên tận đỉnh cao kia, tròn đầy rực sáng Vầng thái dương đang chuyển bóng tà dương Nhưng “quả thật” chính từ trong trái hạnh đã trỗi mầm nhân vượt qua mọi vầng dương.
Budha in der Glorie
Mitte aller Mitte, Kern der Kerne Mandel, die sich einschließt und versüßt Dieses Alles bis an alle Sterne Ist dein Fruchtfleisch:sei gegrüßt
Sieh, du fühlst, wie nichts mehr an dir hängt Im Unendlichen ist deine Schale, und dort steht der starke Saft und drängt Und von außen hilft ihm ein Gestrahle.
Denn ganz oben werden deine Sonnen Voll und glühend umgedreht Doch in dir ist schon begonnen, was die Sonnen übersteht.
BUDDHA – ÐỨC PHẬT
Từ đàng xa, rụt rè, lạ lẫm, kẻ hành hương cảm nhận tượng đâu mà vàng chảy thành giòng như thử có các nhà giàu hối lỗi ăn năn đem hết của dấu kín chất lên thành đống.
Nhưng lại gần hơn, y bỗng phát điên Trước vẻ cao cả của nét mày thanh thoát Ðây chẳng thấy bộ tách trà qúi tộc Cũng không hoa tai trang sức quí phu nhân
Nào có ai biết nói dùm cho, hiện vật gì đã được bỏ vào nung chảy, để bức tượng này trên đài hoa ấy được dựng lên: lặng lẽ hơn, vàng dịu êm hơn một pho tượng vàng ròng và toàn thể chu thân (cũng) sờ nhẹ không gian như thoa nhẹ chính mình. 19. 7. 1906, Paris
BUDDHA
Schon von ferne fühlt der fremde scheue Pilger, wie es golden von ihm träuft: So als hätte Reiche voller Reue Ihre Heimlichkeiten aufgehäuft.
Als näher kommend wird er irre Vor der Hoheit dieser Augenbraun: Denn das sind nicht ihre Trinkgeschirre Und die Ohrgehänge ihrer Fraun.
Wüßte einer denn zu sagen, welche Dinge eingeschmolzen wurden, um dieses Bild auf diesem Blumenkelche
aufzurichten: stummer, ruhiggelber als ein goldenes und rundherum auch den Raum berührend wie sich selber. Rainer Maria Rilke, 19. 7. 1906,
Paris
[i] Hai câu này đã được dịch thoát nghĩa theo tinh thần đạo Phật Từ ức kiếp luân lưu trong thân Thế giải Mầm thiện duyên thúc dục đến bên Ngài Thế giải hay Thế gian giải là một danh hiệu của Phật, người giải phóng thế gian.
[ii] Như Lai: kẻ đến như thế hay Tathagata là danh hiệu của Phật
10 danh xưng truy tặng cho Ðức Phật là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự trượng phu, Thiên Nhân sư, Phật thế tôn.
|