Diêm vương nếu bắt tớ đi ngay Tớ cũng lần khân khất ít ngày Cho gặp tình nhân mà hỏi thử Lời thề sinh tử tính sao đây?
Cha tôi nói: "Ý thơ này có thể là của thầy Võ Liêm Sơn". Cả nhà tôi rất thích bài thơ ấy và chẳng bao lâu một số trí thức Huế ưu thời mẫn thế đều thuộc bài thơ. Tôi đem chuyện ấy nói lại với thầy, thầy bảo: "Cái anh Văn "chạ chạ", buồn sự đời thầy viết bậy bạ cho vui, hay ho chi mà đem đi phổ biến". Rồi thầy đọc cho chúng tôi nghe hai bài thơ trong tập "Cô Lâu Mộng" mà thầy đang viết.
Bài của "Nàng" có đoạn: Trời không cùng đất không cùng Núi người chồng chật Bể người mênh mông Ờ sao núi toan thành vực Bể toan thành đồng Tấn tuồng tranh cạnh xông mưa gió Giọt máu oan cừu đỏ núi sông Thôi thôi, thôi Thánh hiền, thôi Tiên Phật Thôi hào kiệt, thôi anh hùng Ngàn năm sự nghiệp nước về Đông...
Bài của "Chàng" họa lại có đoạn: Trời khó hỏi Đất khó hỏi Sự thế đảo điên Kiếp người chìm nổi Ai giàu, ai mạnh, ai hiển vinh Ai đói, ai hèn, ai tội lỗi Máu ai chảy thành sông Xương ai chồng tày núi Mà ai cơ nghiệp vững đời đời Mà ai tượng đồng cao vòi vọi Thần Phật hết linh thiêng Thánh hiền hết tài giỏi...
Tôi hỏi thầy: - Ai thầy cũng bảo thôi cả vậy thì đi theo ai? Hôm đó cũng như "Vầng nguyệt trong thơ" thầy cũng lặng thinh không nói. Về nhà tôi bảo chú Văn tôi: có lẽ thầy còn giữ bí mật, chú Văn tôi cười: - Và có lẽ thầy cũng đang bí.
Cách đó ít lâu chúng tôi đi nghe ông Nguyễn Thế Truyền nói chuyện tại nhà cụ Phan Bội Châu. Khi về chúng tôi ghé lại nhà thầy. Tôi kể cho thầy nghe những gì mà ông Nguyễn Thế Truyền nói về Ông Nguyễn Ái Quốc, nghe xong thầy hỏi: "Ông ta có nói gì nữa không" chú Văn tôi trả lời:
- Ông ta có nói nhiều chuyện lắm nhưng con nhỏ này chỉ nhớ chuyện ông Nguyễn Ái Quốc thôi. Trầm ngâm một lúc thầy nói: - Hay là thầy trò ta đi theo ông Nguyễn Ái Quốc vậy.
Năm 1947 khi chúng tôi phụ trách Ban báo chí ấn loát khu bốn thì bác Hồ Tùng Mậu chủ tịch Ủy ban kháng chiến bảo tôi về Hà Tĩnh thăm thầy. Bác Mậu gởi cho thầy một bức thư đề nghị thầy ra khu tham gia kháng chiến.
Hai hôm sau thầy đi ngay với chúng tôi. Ra Thanh Hóa thầy ở trong ban Liên Việt nhưng thầy không ở bên cơ quan mà về nhà báo ở với chúng tôi.
Đầu năm 1948 tôi vào nam thầy trò lại xa nhau.
Năm 1952 khi còn ở bên nước bạn thì tôi nhận được thư của chú Văn tôi báo tin thầy đã mất. thầy đã gặp Hồ Chủ Tịch và Bác có tặng thầy một bài thơ như sau: Tặng Võ Công Thiên lý công tầm ngã Bách cảm nhất ngôn trung Sự dân nguyện tận hiếu Sự quốc nguyện tận trung Công lai ngã hân hỉ Công khứ ngã tư công Tặng công chi nhất cú Kháng chiến ắt thành công
Tạm dịch: Tặng cụ Võ Liêm Sơn Ngàn dặm cụ tìm đến Một lời trăm cảm thông Thờ dân tròn đạo hiếu Thờ nước vẹn lòng trung Cụ đến, tôi mừng rỡ Cụ đi tôi nhớ nhung Một câu xin tặng cụ "Kháng chiến ắt thành công".
N.K.B.L (120/02-99)
|