Có thể khẳng định rằng, nét đặc trưng trong sáng tác của Aitmatốp là sự hòa quyện một cách nên thơ giữa tư duy tiểu thuyết mang tính sử thi với những hình thức nghệ thuật dân gian của dân tộc Kirghidia. Khi nói về vai trò của phônclo đối với văn học hiện đại, Aitmatốp viết: "Có thể nói rằng, khả năng tiềm tàng của huyền thoại đã nuôi dưỡng nền văn hóa hiện đại. Đó là một thứ mật ngọt của đời sống tinh thần, của lòng quả cảm và niềm hy vọng của con người" (1).
Huyền thoại và truyền thuyết trong tác phẩm của Aitmatốp được nhà văn chắt lọc từ trong vốn văn học dân gian và chỉ sử dụng những chi tiết, yếu tố mang ý nghĩa đạo đức, góp phần đào sâu thêm mặt triết lý của tác phẩm và thể hiện chiều sâu tâm lý nhân vật. Mặt khác, việc đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm được nhà văn kết hợp nhuần nhuyễn với việc phản ánh đời sống hiện tại, tạo cho nhà văn có một phong cách độc đáo. Tác giả tâm sự: "Cội nguồn của thái độ đam mê vô độ của tôi đối với thế giới loài vật có cội rễ từ phônclo dân tộc Kirghidia", bởi vì "phônclo Kirghidia đầy rẫy loài vật vì đó là phônclo của những người chăn súc vật" (2).
Trong tác phẩm của Aitmatốp, huyền thoại, truyền thuyết có ý nghĩa hướng thiện và khi đặt bên cạnh đời sống các nhân vật thì nó có tác dụng thanh lọc về mặt đạo đức.
Bài ca của người thợ săn trong Vĩnh biệt Gunxarư kể về số phận bi kịch của cha con người thợ săn dẫn đến cái chết của người con và nỗi đau xót đến cực độ của người cha phải tự tay giết con mình. Khi đặt huyền thoại trên bên cạnh cái chết của Trôsô và thái độ ăn năn hối lỗi trong cách cư xử của Tarabai, nhà văn không chỉ nhằm bộc lộ điều sâu kín trong tính cách nhân vật, mà còn là bài học, là tấm gương cho con người hiện đại nếu có thái độ hủy diệt đối với thiên nhiên sẽ chuốc lấy hậu quả không lường hết được.
Trong Con tàu trắng, huyền thoại trở thành trung tâm cấu trúc cốt truyện của tác phẩm. Ở đây các lớp huyền thoại đan chéo với các lớp hiện thực có tác dụng tương hỗ lẫn nhau đã tạo cho tác phẩm vừa mang âm điệu du dương, lãng mạn vừa hiện thực, đồng thời góp phần mở rộng các yếu tố của cốt truyện. Trong suy nghĩ của ông già Môman và trong tâm hồn ngây thơ của cậu bé luôn nuôi dưỡng những câu chuyện huyền thoại về loài Mẹ hươu rừng Maran - vật thủy tổ theo truyền thuyết dân tộc Kirghidi.
Đó là hình ảnh tượng trưng mang nhiều ý nghĩa, thể hiện mối quan hệ của con người với thiên nhiên, con người với quá khứ, truyền thống và hiện đại, văn học dân gian với văn học hiện đại...
Như vậy, theo Aitmatốp, những quan niệm mang nội dung nhân đạo, có ý nghĩa nhân loại tồn tại với thời gian và không bao giờ mất đi trong đời sống thường ngày và ngay cả trong ký ức của nhân dân. Nhà văn đã khẳng định: "Kẻ nào quên quá khứ ắt buộc phải xác định lại chỗ đứng của mình trên thế giới, kẻ nào bỏ quên kinh nghiệm lịch sử dân tộc mình và của các dân tộc khác sẽ bị loại ra khỏi bước phát triển lịch sử và chỉ có khả năng sống với ngày hôm nay"(3).
Nếu những câu chuyện huyền thoại về con tàu trắng, về loài hươu Maran đã nuôi dưỡng tâm hồn ngày thơ trong sáng luôn hướng thiện của cậu bé thì hành động giết loài hươu Maran của Ôrôđơkun là trái với đạo đức, chà đạp thô bạo tín ngưỡng nhân dân và tất yếu sẽ bị trừng trị đích đáng. Phải chăng, qua đây Aitmatốp muốn nhắn gửi rằng, người đời đừng động chạm đến những cái thiêng liêng trở thành phong tục, tập quán của dân tộc được giữ gìn và bồi đắp qua nhiều thế hệ và con người đừng tàn ác với thiên nhiên?
Con chó khoang chạy ven bờ biển có sự pha trộn của đời sống hiện thực và những câu chuyện lãng mạn, huyền thoại. Ở tác phẩm này, Aitmatốp đặt ra nhiều vấn đề mang tính vĩnh hằng của con người: trách nhiệm của các thế hệ, lòng nhân ái, đức hy sinh... Tất cả những cái đó được nhà văn khoác lên một màu sắc mang tính huyền thoại làm cho tác phẩm vừa thực vừa hư, lung linh huyền ảo. Câu chuyện huyền thoại về người đàn bà cá vĩ đại trong Con chó khoang chạy ven bờ biển thể hiện quan niệm của tác giả về cái đẹp của cuộc sống con người, đặc biệt vẻ đẹp của người phụ nữ một kỳ quan tuyệt diệu được thượng đế ban phát cho loài người. Hành động hy sinh của ông già Organ để cứu bố con Kirxki (thế hệ con và cháu) mang giá trị nhân bản, biểu hiện một cách xử thế chuẩn mực về đạo đức. Khi Organ rời thuyền nhảy xuống biển trong màn sương dày đặc, mênh mông không phải ông tìm về với cõi vĩnh hằng mà là để toại nguyện giấc mơ về người đàn bà cá đã từ lâu ông ấp ủ. Sự hy sinh của Organ chỉ có ý nghĩa về mặt thể chất, còn hành động của ông đã trở thành truyền thuyết cho các thế hệ sau.
Huyền thoại và truyền thuyết còn xâm nhập ngày càng nhiều trong một số tác phẩm về sau của Aitmatốp (Và một ngày dài hơn thế kỷ, Đoạn đầu đài...). Chính những truyền thuyết và huyền thoại như: truyền thuyết tên nô lệ Mankur, truyền thuyết về loài chim Đônenbai, chuyện về gia đình với Acbara và Tachainar... đặt lên cạnh câu chuyện về đời sống hiện thực đã làm cho hai tác phẩm trên vừa mang tính sử thi vừa gia tăng tính triết lý sâu sắc.
Trung thành với cảm hứng nhân đạo, được nuôi dưỡng bằng vốn văn hóa dân tộc Kirghidia, dân tộc Nga và thế giới, Ch.Aitmatốp luôn khát khao vươn lên ngang tầm với thời đại trong việc nhận thức thế giới để thể hiện những vấn đề vừa mang tính nhân đạo, vĩnh hằng vừa mang tính thời sự. Những giá trị tinh thần mà nhà văn - nhà nhân đạo Aitmatốp đã cống hiến cho nhân loại vào cuối thế kỷ XX vẫn luôn được lưu giữ trong kho tàng văn học nhiều dân tộc trên thế giới. Bởi vì, đúng như nhà phê bình văn học N. Pôtapốp khẳng định, nhà văn Aitmatốp "... biết lắng nghe tiếng nói của tổ tiên vang vọng trong những cảm xúc về cái đẹp, trong những quan niệm về ý nghĩa của cuộc đời cũng như thực chất của con người, tiếng bước chân của lịch sử, trong những trang sử thi không bao giờ mai một, trong những truyền thuyết và những điệu dân ca mộc mạc..."(4).
H.V.L (135/05-00)
---------------------------------------------------- (1) Báo Văn học, ngày 25 - 3 - 1978 (2) Báo Văn học, ngày 13 - 8 - 1986 (3) Lời tác giả đăng trong Một ngày dài hơn thế ky, Nxb Trẻ Tp Hồ Chí Minh, 1986, trang 11. (4) N. Pôtapốp. Thế giới của con người và con người trong thế giới, đăng trong phần cuối Một ngày dài hơn thế kỷ, Sđd, trang 525.
|