LƯƠNG KHẢ TÚ
Gã không thể tự tính tốc độ của mình song chắc chắn là nó rất nhanh, tới mức lồng ngực mấy lần chực nổ tung dưới sức ép của hơi thở liên tục chồng lên nhau.
Nhưng gã vẫn cắm cổ chạy. Vừa đến nơi gã ngay lập tức lôi giật người phụ nữ về phía sau khiến cả hai ngã sõng soài như hai bao cát bị ném xuống sau buổi tập thể lực.
“Anh là kẻ quái nào? Ai khiến anh?”. Giọng người phụ nữ cao vút lên đầy ai oán.
Câu hỏi của người phụ nữ xa lạ khiến gã lập tức nhớ lại hình ảnh nàng khi đó. Gã ước gì mình biết tên của nàng để gọi. Vì nàng là khởi đầu cho toàn bộ mớ nỗ lực bao đồng mà gã vừa thực hiện.
*
Quay trở về những năm hai nghìn mười mấy đầy trẻ trung và kỳ vọng. Thuở ấy trông gã rất ra dáng một kẻ lông bông. Ngoại trừ bản thân gã và vài thành phần chí cốt, không ai khác kể cả gia đình xem gã là một họa sĩ thực thụ.
Về gia đình gã thì có cả trăm chuyện để nói song gã chẳng muốn nói gì về họ. Từ lúc lọt lòng gã đã nghe phụ mẫu lặp đi lặp lại về gốc gác hoàng tộc của gia đình mà sau này lớn lên gã mới biết nó xa lắc xa lơ nhường nào, cứ như là khoảng cách giữa gã với Vincent van Gogh. Hứng thú của gã dành cho những gì diễn ra trong nhà gần như bằng không, cho dù đó là những phi vụ kinh doanh bạc tỉ được luận bàn giữa bữa ăn đi chăng nữa. Bởi thế nên ngay khi đủ khả năng, gã đã sải cánh bay khỏi mảnh đất kinh kỳ, mặc cho nhiều lời khuyên rằng những lăng tẩm, dòng sông Hương thơ mộng nơi đây mới mang lại nhiều cảm hứng sáng tạo cho nghệ sĩ.
Những ngón tay tuổi hai mươi của gã khao khát vẽ bầu trời của vùng đất khác, dáng hình con người xứ khác. Đến một lúc nào đó, gia đình đã ngừng tác động vào ý muốn của gã. Suy cho cùng, gã không phải người con cả lĩnh hội trọn vẹn năng khiếu kinh doanh từ cha, cũng không phải cậu út vàng ngọc nên chẳng ai quá bận tâm đến cuộc đời kém huy hoàng của một đứa con thứ. Với gã chuyện ấy không quá quan trọng, miễn là tay gã luôn được vẽ.
Gã biến những điều kém huy hoàng trong đời mình thành những hình ảnh đẹp đẽ trong tranh và bán cho bất kỳ ai muốn mua. Nhìn nhận một cách khách quan thì tranh của gã rất tỉ mỉ và chỉn chu, chứa đựng nhiều kỹ thuật cùng sự trau dồi của một họa sĩ trẻ. Chúng như những con điểm khá, thậm chí khá giỏi, nhưng luôn thiếu một cái gì đó bị che bởi tấm màn mỏng chưa từng được vén lên.
Những người xung quanh lẫn chính gã đều tin rằng gã phải tìm thấy một điều gì đó đặc biệt, đủ gây sửng sốt để đưa vào tranh mới có thể bật lên. Nhưng chẳng ai có thể chỉ đích xác vị trí tìm thấy nó. Nhiều năm liền gã dáo dác trông ngóng và đợi chờ điều sửng sốt ấy xảy ra. Trong quá trình chờ đợi, gã từng giắt túi được chút ít thành công với sự đóng góp của nhiều yếu tố. Năm hai bảy tuổi, gã gom hết vốn liếng lẫn kêu gọi sự hậu thuẫn của gia đình để mở một triển lãm cá nhân nho nhỏ. Tại đây gã không quên tận dụng luôn vốn ăn nói để ghi điểm với đúng người. Tỉ như cách mà gã khiến một quý phu nhân phải lòng bức tranh “Lady in pink” của mình.
“Chiếc váy hồng của cô gái trông buồn bã đến mức tôi phải thở dài. Cậu đã làm thế nào vậy?”. Quý bà diễn đạt câu ấy bằng một cái nghiêng đầu động lòng người. “Tôi không hứng thú với hội họa lắm đâu. Nhưng tôi thích chiêm ngưỡng bức họa này. Tôi không nói thế vì mình được cha cậu mời đến đâu nhé!”.
“Thật tình là cháu không phải làm gì nhiều, cô ấy vốn đang rất buồn.” Gã đáp bằng vẻ thành thật như đang trút bầu tâm sự. “Cô ấy vừa đón nhận lời chia tay. Cô có tưởng tượng được không? Mặc một bộ váy hồng thật đẹp, đeo chiếc vòng cổ mới, chỉ để nhận lời chia tay thay vì được nắm tay...”.
“Ôi chao!”.
Quý phu nhân đưa bàn tay đeo chiếc nhẫn kim cương sáng chói lên ôm ngực và buông một tiếng thở dài. Đó là cách gã bán được bức họa của mình với nhiều con số không. Còn cô tình nhân trong tranh ngày hôm ấy có buồn thật hay không thì gã không biết, gã chỉ nhớ mình rất ấn tượng với cách tà váy cô đổ xuống ghế khi cả hai bàn tính chuyện chia tay.
Bẵng đi một thời gian từ sau buổi triển lãm cá nhân, gã không có thêm tác phẩm nào đáng kể. Gã liên tục nhốt mình trong không gian riêng để tập trung nhưng không có mấy thứ đáng để phác họa. Ngày hôm ấy nàng đến khi trời vừa dứt cơn nắng đẹp. Từ căn phòng chung cư nhỏ mà gã thuê cho đến tầng thượng khu nhà hoang đối diện là một khoảng cách vừa đủ để gã bị các chuyển động của nàng thu hút. Mỗi bước chân nàng đều chậm rãi và lơ đễnh, từng cử chỉ như một bài múa uyển chuyển mà thư thái. Từ khoảnh khắc ngước lên thấy bóng nàng trên sân thượng, tay gã đã vô thức cầm chặt lấy cọ liên tục lia lên tấm toan.
Giữa thành phố triệu dân này, khu phố nơi gã chọn sống lại yên tĩnh như bị đánh thuốc mê. Căn phòng của gã cũng chỉ vừa đủ ánh sáng cho dễ tập trung. Vì vậy chắc chắn nàng không thể nhìn thấy gã đang chăm chú dõi theo, cũng không cảm nhận được chuyển động nào xung quanh ngoài bầu không khí riêng tư bủa vây.
Hình dung nàng hiện ra mỗi lúc một rõ. Mái tóc buộc hơi trễ. Chiếc váy màu đỏ đô trông hơi dày so với tiết trời mùa hè. Dù nắng đã bị mây che mất, chiếc váy vẫn để lại vẻ trĩu nặng trên cơ thể mảnh dẻ. Nhìn thật kỹ cổ tay nàng đeo một chiếc lắc nhỏ gắn những viên đá lấp lánh. Dưới chân nàng là đôi giày cao gót đâu đó tầm bảy phân.
Bàn tay gã cầm cọ rất chắc, không dám bỏ lỡ một khoảnh khắc nào. Toan vải trắng được điền khuyết không ngừng. Chẳng cần ai mách bảo, những ngón tay của gã cứ lia liên hồi. Thật khó để ghi lại chuyển động của nàng nhưng chút tài năng được tôi luyện nhiều năm của gã đã làm được. Chính gã cũng thấy ngạc nhiên khi mình có thể ghi lại những hình ảnh ấy nhanh và tỉ mỉ đến thế, tựa như đứa trẻ năm xưa say mê chép lại hình ảnh của bầu trời vần vũ, của dòng sông Hương sau cơn mưa. Não bộ sản xuất hàng triệu hiệu lệnh bắt tay gã chuyển động liên tục, mọi cơ quan đều hoạt động nhanh nhạy tới mức tài tình. Song chính cơ quan nhạy bén nhất của gã đã gạt đi chi tiết thường tình nhất: trước mắt mình có một người đang đứng bên rìa thế giới.
Như một hình ảnh được cắt ra từ giấc mộng không lành, cái bóng màu đỏ lao như cắt xuống khỏi tầng thượng. Cách một tấm cửa sổ, dường như không hề có một mẩu âm thanh nào lọt vào tai gã. Căn phòng của gã như một vùng chân không với sự yên lặng toàn bích, kể cả đầu cọ cũng không phát ra tiếng khi chuyển động. Gã không làm gì khác ngoài vẽ và tập trung vẽ. Tâm trí gã ráo riết đặt lên những đường nét dần hoàn chỉnh, đôi tay mải mê pha màu đến quên cả quệt mồ hôi trên trán. Chỉ đến khi mọi chi tiết trong tranh hoàn thiện, cả người gã mới đổ ập xuống sàn. Sự tập trung đột ngột đã hút kiệt năng lượng bên trong cơ thể. Hình như gã đã thiếp đi rất lâu. Đến khi tỉnh dậy gã nghe thấy âm thanh đã quay trở lại nhưng khu phố mình sống vẫn bình lặng như mọi ngày. Cơn huyên náo có lẽ đã dậy lên rồi tắt ngóm trong khoảng thời gian gã say giấc.
“Tuyệt tác thì chưa, nhưng…”. Nhà thẩm định mới nổi trong giới hội họa đứng nghiêng đầu nhìn bức tranh. “Có thể nhìn thấy cá tính của anh rồi đấy!”.
Đối diện với lời khen từ nhà thẩm định, gã nở nụ cười hài lòng và nhìn thẳng vào mắt anh ta để khẳng định xác tín.
“Anh nên cười tươi hơn đi, bức tranh này đáng giá gấp nhiều lần các bức trước.”
Gã luôn mơ về thành công và lần này thành công đến đột ngột như nắm đấm của người khổng lồ, khiến gã bật ngửa vào danh vọng. Lĩnh vực hội họa không phát triển rực rỡ trong nước, tuy nhiên thành công của gã đủ sức bật lên thành những bài báo đăng ở các tạp chí. Chẳng mấy ai biết tên gã trước đó, nhưng bấy giờ giới hội họa đều nói về bức “Hồng hạc bay lên”.
Lấy tên hồng hạc nhưng điểm nhấn trung tâm của bức vẽ nằm ở mảng màu đỏ thẫm giữa không trung. Một khi ánh mắt đã đậu lên đều bị hút mãi vào sắc đỏ ấy.
“Cánh hồng hạc được ráng chiều nhuộm đỏ au, chao liệng rồi kiêu hãnh bay lên mang theo tên tuổi của họa sĩ […]. Đây không phải lần đầu giới mộ điệu dành lời tán dương cho những nghệ sĩ trẻ. Nhưng lần này chỉ với một lát cắt mỏng giữa không trung, họa sĩ đã đem đến nét chấm phá vô cùng độc đáo, xứng đáng để ta nán lại chiêm ngưỡng.”
Bài báo được trợ lý của gã đọc lớn ở quán cà phê chiều chủ nhật, nghe cứ như đoạn trích từ cuốn tiểu thuyết xa xôi, hóa ra lại đang nói về chính gã - đứa con thứ từng bị gia đình lãng quên. Gã lắng nghe, nghiền ngẫm từng câu chữ rồi nhớ tới cú điện của cha vào đêm trước. Chính những bài báo hoa mỹ kiểu ấy đã thu hút sự chú ý của gia đình.
“Ra là con cũng có chút tài.” Từng lời cha nói đều đều nhưng chắc nịch vọng vào điện thoại.
Đó là cách gã biết mình đã thật sự thành công. Tự thân gã hiểu rằng chút vinh quang vừa có chưa đủ khiến khoảng cách giữa gã và Vincent van Gogh thu hẹp lại bao nhiêu xen-ti-mét, nhưng phải thừa nhận gã đã một tay chạm vào điều mình mong mỏi. Thành công khiến cho cuộc sống của gã trở nên rất kỳ lạ vào giai đoạn ấy. Gã liên tục đi đi về về giữa những buổi triển lãm, họp mặt, gặp gỡ giới hội họa. Gã được nghe người khác ngợi ca, bình phẩm tranh của mình thay cho những lần tự thuyết minh bằng mọi lời lẽ trên đời. Kể cả khi đã bước ra ngoài trạng thái bận rộn, thời gian còn lại gã cũng dành để nghĩ về vinh quang đang nắm trong tay. Có quá nhiều thứ xoay tròn gã trong đó, quá nhiều việc để làm và nhiều điều để nghĩ, đến mức chưa có giấc ngủ nào kịp kéo tới thì chuông điện thoại và thư điện tử đã tới trước. Về đêm gã cũng chỉ có được vài giấc ngủ ngắt quãng không đáng kể.
Gã thèm khát thành công này nhưng sau một thời gian không ngủ, gã lờ mờ cảm thấy mình đang bị cuỗm mất một thứ quan trọng và dần rơi vào trạng thái mơ màng. Nhiều lần mới thấy đèn xanh trước mặt mà gã phải vội phanh gấp vì xe hai bên đường túa lại. Nhiều lần khác gã cố nghe mãi mà không hiểu người ta đang nhận xét gì về bức họa của mình. Giờ thì gã chỉ thèm một giấc ngủ ra trò. Đợi mãi cho đến một đêm nóng bức không sao chịu nổi, gã bị lôi tuột vào giấc mơ sâu thẳm.
Trong mơ gã đang đứng trong căn hộ cũ, tấm rèm cửa sổ được vén lên rất cao, mang theo toàn bộ ánh sáng từ bên ngoài rọi vào thân thể gã. Gã đứng bên cửa sổ nhìn thẳng qua sân thượng tòa nhà hoang. Trong mơ mà gã vẫn cảm thấy cơ thể túa đầy mồ hôi. Gã thử nhìn sang một hướng khác nhưng cái gì đó bắt gã phải nhìn thẳng vào sân thượng ấy. Gã không tài nào phớt lờ hay xua đi hình ảnh nàng đang đứng ngay đó, trong bộ váy màu đỏ thẫm đung đưa theo từng chuyển động. Và ở đó nàng nhìn thẳng vào gã. Gã muốn né tránh tận cùng ánh mắt ấy nhưng không tài nào làm được, chiếc rèm cũng không hề lay chuyển dù gã ra sức kéo xuống. Gã chỉ có cách đứng yên, cho ánh mắt nàng gieo thẳng vào.
Trong lúc gã còn đang cố đọc những tín hiệu trong ánh mắt thì bất thình lình chân nàng kiễng lên rồi cả thân người lao thẳng xuống. Gã chỉ kịp phát ra một tiếng kêu chói tai. Lúc này mồ hôi đã đầm đìa khắp cơ thể. Toàn bộ tay, chân, đầu óc, mắt, môi của gã đều bất động, chỉ có mồ hôi liên tục túa ra. Mắt gã cũng đổ mồ hôi. Không! Thứ nước đang tuôn trào từ đôi mắt chính là những giọt lệ mà cái bản thể của gã ngoài đời thực chớ hề nhỏ xuống. Gã khóc như một con người nhỏ bé bị quẳng giữa lòng đại dương mênh mông, như tinh cầu cô đơn sót lại trong vũ trụ.
Ngoài cửa sổ, một cánh chim hồng hạc từ dưới bay lên nằm trọn trong tầm mắt. Đúng là cánh chim đỏ thẫm chính tay gã đã tô vẽ nên. Không phải màu đỏ của ráng chiều rực rỡ, cái màu đỏ đến nhức mắt nhuộm lên cánh chim chính là máu tươi.
Trước khi gã kịp định thần thì con chim hồng hạc đã dùng cái mỏ cong gập đâm xuyên qua cửa kính mổ thẳng vào lồng ngực gã. Quán tính kéo cơ thể gã rơi khỏi cửa và rơi mãi không ngừng, phía bên trên là cánh chim đang ngoạm trái tim vút lên trời cao. Giấc mơ không có điểm kết thúc. Thân thể của gã vẫn tiếp tục rơi cho đến khi gã bật dậy, hớt hải sờ tay lên lồng ngực. Quả tim vẫn đập từng nhịp thình thình, toàn thân gã thì ướt đẫm.
Từ sau đó, mỗi khi nằm mơ, gã luôn phải chứng kiến cánh chim hồng hạc nhuốm máu lạnh lùng tha trái tim mình đi. Các chi tiết trong mơ lặp đi lặp lại cùng một thứ tự. Bao giờ thức giấc gã cũng thấy cơ thể mình bị phủ một lớp mồ hôi.
Hơn một năm sau khi tên tuổi phất lên rồi dần hạ nhiệt, gã không hoàn thành thêm được bức vẽ nào. Bức “Hồng hạc bay lên” đã cho gã một mức sống cao hơn, một căn hộ tiện nghi và rộng rãi ở nơi gã muốn. Nhưng sau rốt chúng không còn là điều gã mong muốn khi mà gã không thể ngủ ngon và cũng không thể vẽ. Gã thèm cảm giác cầm cọ lia những nét mềm mại mà dứt khoát, tô những khối màu như chỉ mình gã pha được. Nhưng tấm toan trắng trước mặt gã bao giờ cũng có sẵn một mảng màu đỏ thẫm nhức mắt, mỗi phút lại lan rộng thêm.
Khi giấc mơ lớn dần bị thế chỗ bởi cơn ác mộng lặp lại, dáng vẻ trẻ trai đầy kiêu hãnh cũng dần rơi rớt khỏi con người gã. Người ta không còn nhìn thấy người “họa sĩ trẻ tài năng” ngày nào xuất hiện trong những showroom, triển lãm và những buổi giao lưu nghệ thuật. Gã ngừng các mối quan hệ thương mại lẫn xã hội để dành thời gian nhìn lại toàn bộ tác phẩm mình đã công bố. Mất rất nhiều thời gian để làm điều này nhưng thời gian chính là thứ gã thừa mứa. Gã quan sát chúng hàng giờ, hàng buổi, hàng tuần, trong đủ mọi tư thế. Có những ngày gã chỉ nằm dài trên sàn để nhìn lên những bức họa. Cho đến khi tất cả tác phẩm đều đồng loạt hiện lên rõ nét trước mắt như bản trình chiếu sinh động nhất thế giới, gã mới thấy mình lơ lửng bay trong một thế giới phẳng.
Một thế giới không có chỗ gồ lên hay lõm xuống, không có nơi để bám vào. Chính là thế giới mà gã đã tạo nên! Toàn bộ tranh vẽ đều phẳng phiu như thể trước khi hoàn tất thì ai đấy đã mang đi là thẳng. Những hình khối đẹp mắt và chỉn chu tốn nhiều công sức để hoàn thành, những mảng màu chấm phá điệu nghệ nhưng một khi lướt qua sẽ đánh rơi khỏi ký ức. Bởi chúng hoàn toàn không chứa tiếng nói và hơi thở của sự sống.
Bức tranh duy nhất chứa đựng tâm hồn nóng hổi của một con người, bức tranh người ta dùng để định danh gã, lại là thứ vay mượn và giam giữ tâm hồn người khác. “Hồng hạc bay lên” là bức tranh duy nhất phả ra làn hơi sự sống ấm nóng. Người ta ca tụng, ngưỡng mộ và thích thú cảm nhận hơi ấm ấy mà không hay chỉ vài giây sau thực thể trong đó đã lạnh ngắt.
Gã luôn ngầm xem bản thân là nghệ sĩ tài hoa và là đứa con tự do nhất trong gia đình. Khi trái tim bị cắp đi và thân thể bồng bềnh trôi trong thế giới mình tạo ra, gã mới nhìn thấy những chấn song ảo tưởng giam cầm mình bao lâu nay. Gã nào phải nghệ sĩ mà chỉ là kẻ chăm chăm gom nhặt từng viên gạch xây nên một vương quốc phẳng. Đôi tay gã mải bận chứng minh tài năng trong khi trái tim chưa từng lay động. Trí óc gã lưu giữ được vô vàn hình ảnh sắc nét nhưng mọi giác quan còn lại chưa từng thực sự lắng nghe tiếng nói của người khác, chưa từng chạm vào và cảm nhận tiếng tim ai đập, chưa từng ngoái nhìn nỗi thống khổ của một ai, chưa từng sống trong thế giới nhộn nhịp này. Gã tưởng mình đứng trên một vị trí riêng biệt để quan sát và nắm bắt những chi tiết đẹp đẽ nhất hòng vẽ lại cho kẻ khác chiêm ngưỡng. Hóa ra nơi gã đứng chỉ là một lồng giam chật hẹp không ai léo hánh. Người nghệ sĩ thực thụ phải là một phần của thế giới, sự phi thường được nuôi dưỡng và nứt ra từ lớp vỏ bình thường. Vào cái khoảnh khắc được trở thành một phần của diễn biến đầy sửng sốt mà mình hằng ao ước, gã chọn vươn tay từ góc tối đánh cắp trái tim rỉ máu của nàng thay vì cố giữ bàn tay nàng lại. Chút hào quang rọi lên cuộc đời khiến gã tin rằng mình đã biến khoảnh khắc ấy thành thứ nghệ thuật phi thường, mà giờ đây gã mới thấu tự thân nỗi thống khổ trong đó đã chạm vào trái tim người xem.
*
“Cô không biết được những gì sẽ xảy ra sau khi cô làm vậy đâu.”
Người phụ nữ trẻ chưa dứt cơn bàng hoàng, vừa thở dốc vừa nói:
“Anh thì biết tôi muốn cái chi?”
“Nhảy xuống.”
Đột nhiên cô trở nên thẫn thờ như bị bắt quả tang.
“Trông rõ ràng lắm à?”. Tiếng hỏi của cô mệt mỏi như hàng chục tiếng thở dài cộng lại.
Làm sao để gã nói cho cô biết rằng đó là điều rõ ràng nhất mà gã nhận thấy suốt thời gian qua? Gã không còn nhớ đã bao lâu từ khoảng thời gian đó. Có thể là không quá lâu mà cũng có khi đã hàng chục năm trôi qua. Điều gã nhớ được là giấc mơ không ngừng giày vò tâm trí, đôi tay buộc phải từ bỏ sáng tác và những toan vải được xếp gọn vào góc, sau cùng là quyết định rời thành phố để hồi hương. Gia đình thu xếp cho gã một căn nhà cũ vốn là tài sản chưa bán được, vị trí xa trung tâm để gã tập trung giải quyết vấn đề cá nhân - theo như ý muốn của gã. Hằng ngày gã đạp xe đi quanh phố, ngắm những di tích cổ, nhìn những hàng quán đông nghẹt du khách, ngửi mùi dòng sông sau cơn mưa. Một người quen mùi phố thị miền Nam như gã luôn thấy rét run trong cơn mưa dai dẳng xứ Huế. Nhưng gã thà để bản thân ướt sũng nước mưa còn hơn ướt đẫm sau mỗi lần chợp mắt.
Thi thoảng ngồi trú mưa trong những con hẻm thinh lặng rợp bóng cây, gã thử phác thảo lại vài nét trên giấy nhưng lần nào cảnh trí của kinh đô cũng mơ hồ tuột khỏi tầm tay. Cho đến khi choàng tỉnh sau một giấc ngủ sâu thẳm, gã bắt gặp lại hình ảnh một người phụ nữ đứng bên tầng thượng tòa nhà đối diện qua ô cửa sổ không đóng kín. Tất cả chợt trở nên rõ ràng và gã biết mình không được làm gì khác ngoài chạy, chạy hết tốc lực băng sang đường, leo bộ lên bảy tầng lầu với tốc độ nhanh gấp mấy lần lúc thi chạy marathon ở trường. Mệt chết đi được nhưng khoảnh khắc xô cô ngã trên tầng thượng thay vì ngã xuống dưới kia, gã mới thật sự cảm thấy mình nắm được điều gì đó trong tay.
Người phụ nữ này không phải là nàng. Cô mặc một chiếc áo khoác xộc xệch tuột khỏi vai, mang đôi giày thể thao cũ mèm đầy vết xước, cái quần jeans tương đối mới giờ đã lấm lem, một hình ảnh hoàn toàn đối lập với chiếc váy đỏ nàng đã mặc khi đó. Cô không mang chi tiết nào giống với nàng ngoại trừ ý muốn trong đầu. Nhưng cô là bàn tay mà mất rất nhiều thời gian gã mới nắm được của nàng và gã sẽ dùng tất cả sức lực để nó không tuột ra.
“Thật ra thì, trông cô như đang tận hưởng một chuyến hóng gió vô hại. Nhưng tôi biết ý định của cô bởi vì nhìn tôi đi! Tôi có khác chi cô! Tôi đã từng thấy cô và tôi cũng chính là cô.”
Cả hai dùng giọng miền Nam để nói với nhau nhưng âm điệu đặc trưng lẫn trong đó chứng tỏ họ là hai kẻ đã lớn lên ở đây, ăn cơm uống nước xứ này lớn lên. Ánh mắt của người phụ nữ trẻ thôi đậu trên mặt gã mà chuyển xuống nhìn bản thân.
“Nhưng anh cần chi làm vậy...”. Giọng cô mỗi lúc một rõ ràng và bớt phần run rẩy. “Mình chớ biết đối phương. Ra sức cứu một người lạ làm chi?”
“Tôi muốn được sống và hy vọng cô cũng vậy.”
“Cứ sống phần anh thôi không được sao?”
“Được.”. Gã thở phì một cái, đoạn khẽ đặt bàn tay lên chính giữa lồng ngực rồi bấu vào đó. “Nhưng chỗ này của tôi sẽ dần chết đi. Tôi đã thử tồn tại không có nó rồi, chẳng hay ho chút nào. Tôi thèm được sống với đầy đủ bộ phận hơn.”
Ánh mắt người phụ nữ trộn lẫn nhiều tia nhìn phức tạp. Khi nhìn vào mắt gã đủ lâu, cô nhận ra một cái gì rất quen thuộc như tự soi mình trong gương. Hai con người xa lạ không có lấy một mẩu thông tin về nhau, chậm rãi trút bỏ lớp vỏ bọc thường ngày để trông thấy nhau trong hình hài đơn sơ nhất. Trong tiếng nói, ánh mắt của cả hai đều chứa đựng bao phen mỏi mệt và thất bại, thậm chí còn có dấu vết bị sự chết tóm lấy. Nhưng vào giây phút cô giao nộp mình cho cái chết thì gã vẫn đủ khả năng vùng vẫy đến mức kéo văng cô ra khỏi đó. Cô hiểu rằng gã đàn ông này không nói dối, gã chỉ đang muốn được sống. Và từ cái lúc cả hai ngã ra đất thay vì rơi vào thinh không, mong muốn đó của gã cũng đẩy ngã luôn ý nguyện được chết trong cô. Thân thể ai cũng mệt mỏi rã rời song khi nghĩ về cái chết vốn đã rất gần, dường như ai cũng có được câu trả lời: không phải hôm nay. Những vết xước sống động trên da thịt của cả hai là minh chứng cho một lần nữa được sống và phải sống.
Thời gian lặng lẽ trôi đi không ai đếm. Trên sân thượng tầng thứ bảy của khu nhà hoang vắng, hai người lắng nghe nhau thông qua những thanh âm im lặng. Mảnh đất kinh kỳ nổi tiếng đầy những danh lam thắng cảnh, những khu phố chợ sầm uất tiếng người lại qua, riêng nơi này như được khoác lên tấm áo riêng tư. Từ nơi cả hai ngồi trông xuống cũng chỉ có cây xanh xen giữa những mái nhà nằm yên. Huế thu gọn trong tầm mắt họ dưới hình hài mộc mạc nguyên sơ của xứ sở quê hương. Và gã, trong hình hài một người đàn ông trên 30, cũng thấy mình mỗi lúc một thu lại như đứa trẻ ôm mơ nằm nghe gió hát. Gã không biết cô đang nghĩ ngợi những gì nhưng khi nhìn sang, cảm giác thân thuộc ngày một lan ra trong tâm trí.
“Nì, nếu cô cần, cầm chặt tay tôi mà đứng lên, tôi đỡ cô đi xuống bậc thang dốc kẻo té.”
“Tôi muốn ngồi thêm chút đã.”
“Tôi ngồi chung với cô.”
“Chừ mà mưa xuống thì sao hí?”
“Thì ướt. Nhưng có làm sao mô. Nhà tôi ngay đối diện đó cô thấy không? Cô cần thì tôi cho mượn cái khăn.”
“Rứa cũng được. Tôi cần thì tôi sẽ bảo anh.”
Gã không biết tại sao những lời này lại bật ra. Chính cô cũng khựng lại mấy giây như để lắng nghe chính mình. Những lời tự nhiên từ thuở lọt lòng, xen lẫn vài thanh âm kiểu cách đã phác họa chân dung của hai kẻ mang đầy hoài bão tự rời bỏ quê hương, sau cùng trốn chạy khỏi thành phố lớn để về nằm gọn dưới bầu trời này. Đã rất lâu từ khi hồi hương gã mới nghe có người chuyện trò với mình bằng chính âm thanh của mình. Gã đã chạy rất xa, leo lên đỉnh cao và rơi thật sâu, nhưng giờ gã chắc rằng mình đã chạm đất vì bàn tay gã không còn mải bận cầm cọ chép lại những chuyển động của thế gian mà đã nắm được bàn tay khác. Chân gã bước ra khỏi vùng chân không để tai lắng nghe tiếng người khác. Gã biết đôi chân này một mai sẽ lại đi tìm kiếm những vùng trời mới, con tim lại mơ một giấc mơ chưa từng có, nhưng tất cả đều sẽ khởi đầu từ nơi gã được sinh ra. Lần này, gã tái sinh trong tâm thế một con người bình thường biết sợ hãi, biết chạy đuổi theo ước nguyện, biết yêu ghét, sóng đôi, biết nhẫn nại và bình tâm đón nhận cơn mưa để chờ ngày lớp vỏ bình thường nứt ra.
L.K.T
(TCSH423/05-2024)