HAI SÔNG
Anh Phúc là cháu nội ôông mụ Bánh (ông bà Bánh - giọng miền Trung), đó là tên gọi thân mật của dân làng đối với vợ chồng cụ ông cụ bà Sung - Huệ, dân ngụ cư từ huyện khác tới, trở thành chủ tiệm sản xuất bánh nậm, bánh bèo, bánh đúc làm từ bột gạo có sẵn ở cái làng chuyên canh cây lúa ngoài đồng bãi sát bờ sông Bồ mỗi năm vài trận lụt bồi đắp phù sa, còn “bánh bột lọc bọc nhụy tôm, hai tay lột lá, cái mồm há ra” và kẹo gừng mà đứa con nít mô cũng thích lại có sẵn các rẫy sắn và hàng chục sào gừng trồng trên các mảnh đất gò đồi đất đỏ lúp xúp như bát úp phía sau lưng làng. Nước thì không thiếu để tinh lọc bột sắn thành bột lọc vì có con sông Bồ chảy qua, tóm lại cả nguyên liệu lẫn phương tiện phụ trợ nghề đều có đủ nên sản phẩm làm ra rất dân dã, giá cả rẻ như cho, bán rất đắt hàng. Tích tiểu thành đại, chỉ mươi năm là hai ôông mụ giàu nứt đố đổ vách. Mụ Bánh tên thật là Hoàng Thị Huệ, quê ở làng Lam thuộc huyện bên kia sông, còn ôông Bánh tên thật là Huỳnh Văn Sung quê ở làng Mây thuộc huyện bên này sông, cả hai huyện đều ở phía nam Kinh thành; có cái họ tuy khá giống nhau nhưng không cùng tông tộc, nhà thờ; vậy mà ác thay vẫn bị gia đình hai bên tuyệt không cho hai đứa lấy nhau vì sợ trùng họ, hôn nhân cận huyết, con cháu suy vi! Vì thế, chàng trai Huỳnh Văn Sung cùng cô gái quê Hoàng Thị Huệ rủ nhau trốn cha mẹ đi một mạch lên làng Lành, cách xa làng Mây gần trăm cây số. Thời vua Tự Đức, khoảng cách chừng đó là xa lắm, đi bộ hết cả ngày, ai hơi đâu mà đi tìm, huống chi làng gốc ở chính giữa vùng đồng bằng trù phú nhất Phủ Thừa Thiên, làng đến ngụ cư lại gần vùng núi phía Bắc, dân cư sống dọc bờ bên trái sông Bồ, nhìn từ thượng nguồn. Ban đầu theo thông lệ, cặp đôi được dân làng gọi bằng cái biệt danh “dân ngụ cư”, ý chỉ không phải dân bảy họ “tiền khai canh, hậu khai khẩn” của làng, mà chỉ là những kẻ “trôi sông lạc chợ, ăn tạm ở bợ” mà thôi, có cư trú mười đời vẫn không có tên chính trong sớ tấu dịp xuân thu nhị kỳ tế làng, trai tráng chỉ lo phục dịch, công việc chính là làm “thằng mõ” gõ lốc cốc đi rao tin trong làng. Dù vậy, có cái hay là dân làng không ai cản trở phá hoại gì chuyện làm ăn của hai vợ chồng, ôông mụ Bánh cứ thế giàu vùn vụt do nghề làm bánh, kẹo bán khắp làng trên xóm dưới, trong tổng ngoài xã. Tuy nhiên thằng cháu nội đích tôn là anh Phúc thì sướng như tiên, điều đó gây ra chuyện ganh ghét đố kỵ “cái thằng con nhà giàu” trong đám thanh niên hầu hết còn nghèo. Biết ôông mụ Bánh cưng nhất cháu nội đích tôn, bọn trai làng bày mưu làm nhục cho bõ ghét.
Một hôm, anh Phúc nhà ta sau bữa cơm chiều xong lững thững đi dọc bờ sông Bồ hóng mát, cũng là dịp tăm tỉa coi có o con cấy mô chưa chồng để còn thả câu. Ỷ mình sức vóc cao lớn, võ nghệ cao cường nhờ học từ lò Võ Kinh Vạn An nên lâu nay anh chưa từng để mắt đến mấy chàng trai trong làng nhỏ bé yếu ớt, một chữ bẻ đôi không biết, một miếng võ mèo cào cũng không hay, cứ thế đi dạo thong dong như chốn không người. Bỗng dưng, bằng trực giác con nhà võ, anh đình bộ rồi đột ngột quay đầu về phía sau. Đúng như trực giác, sau lưng anh là mấy kẻ quen nói xỏ xiên, kéo một bầy đi sau lưng một thằng da nâu đen, thân hình cao lớn lực lưỡng giương đôi mắt nhìn anh gườm gườm. Hắn ta ở bên kia sông, khác xã khác huyện nhưng cả hai quá biết nhau vì đều chưa vợ, đang tranh chấp quyết liệt bằng lời nói một o con gái đẹp nhất làng, nhưng chưa từng động tay động chân. Biết là gặp địch thủ không vừa, anh Phúc âm thầm thủ thế trước. Không ngờ, cao nhân tất hữu cao nhân trị! Chỉ một cú đá vòng mà dân võ gọi là cú bàng long cước cực nhanh và mạnh của tên da nâu đen cao như lính đánh thuê châu Phi, anh Phúc đã bị bay vèo xuống sông, sặc nước một hồi rồi lóp ngóp bò lên bờ trong hàng tràng tiếng cười chế nhạo của đám trai làng. Từ sau hôm đó, anh Phúc biến mất khỏi làng, không ai rõ đi đâu, cả bầy trâu mộng mấy chục con của ông bà nội giao cho anh chăn dắt và cả chục cái nồi đồng, mâm đồng bà nội cất kỹ như vàng ngọc cũng biến mất theo. Mụ Bánh khóc hết nước mắt, dốc hết tiền xu nhờ người dò la tung tích đứa cháu nội đích tôn, nhưng tiền đi theo người, trâu mất hút trâu, mâm nồi cũng vậy! O con gái đẹp nhất làng sau đó ít lâu theo về một nhà với anh chàng cao to da nâu đen đã đá bay anh Phúc xuống sông. Hắn là dân chính gốc thuộc họ khai canh, tổ họ của hắn được vua phong làm Thành hoàng làng nên dân làng Lành chính gốc bảy họ xưa nay vẫn hiền lành như tên làng không dám hó hé, huống chi là dân ngụ cư như ôông mụ Bánh!
Mấy năm, mà e là cả chục năm sau, bỗng dưng anh Phúc trở về. Ít bữa sau, nghe nói có một trận kịch chiến giữa anh Phúc và anh chàng da nâu đen cao to ở bãi bồi giữa sông. Kết quả chỉ được dân làng đoán mò vì từ đó không thấy anh chàng kia mò sang làng vợ nữa! Nghe phong thanh anh ta đăng lính khố đỏ chi đó, đưa vợ bỏ làng đi luôn. Riêng anh Phúc từ ngày về làng cũng ít khi xuất hiện chiều chiều dạo mát bờ sông như ngày xưa. Anh xuất hiện với phong thái khác trước nhiều, vui vẻ với đám trai làng và cùng họ đêm đêm lên rú luyện võ, múa đao múa kiếm, học phí trả bằng khoai sắn, nước chè xanh, gừng tươi của nhà, chỉ trừ các bánh đường đen phải mua ở chợ xã. Không còn nghe tiếng xì xào anh là dân ngụ cư, trôi sông lạc chợ nữa, thay vào đó anh được đám thanh niên trai tráng trong cả xã kính cẩn gọi là Thầy. Dần dà dân làng cũng hiểu thời gian bỏ làng đi, anh đã vô tận Bình Định tìm thầy học võ để trở về làng rửa mối nhục năm xưa. Nhưng vẫn có kẻ gièm pha: Giỏi võ, mất vợ! Có kẻ lại trề môi mỉa mai: Làm bộ làm dạng cho oai chớ đánh được ai! Bỏ hết ngoài tai, anh Phúc cứ thế đêm đêm luyện võ cho trai làng, còn bọn xấu mồm vẫn chưa hề chịu phục.
Một hôm, làng có bọn cướp cầm dao gậy, côn, mã tấu đến cướp. Nhà đầu tiên bị đe doạ lột sạch tài sản, coi chừng mất mạng cả nhà lại chính là nhà của kẻ xấu mồm nhất: Con trai cưng nhà ông Tiên chỉ, lâu nay cậy có của nên được đám vô công rỗi nghề hùa theo kiếm miếng ăn, trợ Trụ vi ngược, nay vợ hắn - đứa con dâu nhà ông Tiên chỉ thấy anh Phúc được đám thanh niên mến mộ thì ấm ức trong lòng, trề môi mai mỉa. Anh Phúc chẳng để bụng nên khi nghe tiếng kêu cứu liền nhảy phóc khỏi giường, rút soạt cây mác giắt sẵn trên mái nhà, lao tới chỗ bọn cướp đang vây kín cả già lẫn trẻ, sáu tên cả thảy. Một thằng cao lớn thủ cây trường côn. Anh Phúc múa một đường mác, trường biến thành đoản. Thêm một cú đá vào bụng, thằng cao lớn đỏ mũi đỏ mồm, nằm rên ư ử! Năm thằng kia hè nhau vây kín. Rốt lại, ba tên gãy cẳng gãy tay, một thằng vãi đái ra quần, quỳ xin tha mạng. Tên cuối cùng nhảy ùm xuống sông trốn lẹ. Anh Phúc vứt mác lao theo. Cả làng thắp đuốc sáng rực bờ sông, thắc thỏm chờ. Một chặp thấy anh Phúc trồi lên thở phì phì, một tay túm chặt tóc thằng đào tẩu. Lúc mới đến, hắn như con sói con cọp, chừ như con dẽ giun, run như cầy sấy! Chỉ một vụ ấy thôi, anh Phúc trở thành anh hùng hào kiệt cấp làng xã và trở thành rể quý của xã bên, không còn có ai dám buông lời mỉa mai. Nghe đâu sau đó ít hôm ông Tiên chỉ bàn bạc và được sự đồng thuận với các cụ đại diện bảy họ khai canh của làng đã làm lễ cáo Thành hoàng và các vị “tiền khai canh, hậu khai khẩn” chấp nhận cho hai ôông mụ là dân chính gốc. Từ ấy, mỗi khi làng có việc, ông nội và cha anh Phúc cũng được mời ngồi vào mâm theo thứ bậc trong làng, một cách âm thầm ghi công ôông mụ đã có đứa cháu nội đích tôn hào hiệp như Lục Vân Tiên.
Cơ duyên trời định một phần, phần khác do anh Phúc có duyên với phụ nữ nên anh có đến ba bà vợ, hai bà cùng tỉnh, khác huyện, riêng bà thứ ba ở tận xứ Thanh sau khi ông (bây giờ phải gọi thế) tập kết ra Bắc năm 1954. Do vợ hay đau yếu, không cấy lúa được, hợp tác xã chỉ chấm công điểm mỗi mình ông nên thóc không đủ ăn, thịt chưa dính mép đã hết nên ông phải bươn chải vào tận Quảng Bình để đúc nồi nhôm, chậu nhôm từ sắt thép phế liệu thời kháng chiến chống Pháp để kiếm tiền nuôi vợ và 5 đứa con. Mười năm sau ngày đất nước thống nhất, ông Phúc thường dân trắng tay không lương hưu trí về quê tay trắng không nhà! Không ai trong làng còn nhắc lại chiến tích oai hùng đánh cướp cứu dân của ông nữa! Ông đột ngột về, ít lâu sau, vào năm 1993 lặng lẽ đi vô Nam cùng bà vợ thứ ba với đứa con trai út, để lại trách nhiệm cho đứa con trai thứ là anh Đức gánh vác mọi việc của chi phái, dòng họ dù đang cư trú xa quê. Anh Đức nhớ lời dặn miệng của cha: “Mất gì thì mất, không để mất lăng mộ tổ tiên, không quên họ hàng làng nước!”.
*
Sau nhiều lần về làng tham gia tế, lễ, giỗ, chạp tại hai làng nội, anh Đức rồi về già thành ông Đức đã đúc kết mấy điều cả hay lẫn dở: Cái dở đầu tiên là lệ làng lệ họ ở hai làng nội cũng như làng ngoại đều nặng như đá đeo cổ, vướng như rổ úp trên đầu không làm theo không được, làm theo thì hết hơi!
Bằng chứng vào năm 2000 về làng nội gốc để gặp ông bác họ tên là Minh từ khi sinh ra đến giờ mới gặp mặt, anh đã bị sốc toàn tập khi ông thản nhiên chìa bản gia phả viết tay kèm theo lá thư của ông Phúc cũng viết tay, trong đó có câu dặn dò tâm huyết trên. Đọc xong, anh bình thản coi như số phận an bài, chấp nhận gánh vác mọi việc được giao cho trọn kiếp! Dĩ nhiên ban đầu anh hơi bực vì ông bác họ chỉ lớn hơn anh chừng giáp rưỡi và thua cha anh gần hai giáp mà vẫn hồn nhiên gọi cha anh là “thằng cha mày” còn cha anh - tức ông Phúc dù đã bạc đầu nhăn da vẫn lễ phép cúi đầu nghe anh họ giao việc, nghe bà con nói lại thế. Từ đó, anh Đức sát cánh cùng bác Minh nhà ở một tỉnh Trung Trung bộ vẫn lặn lội mỗi năm về chạp, thăm hỏi bà con nội ngoại dâu rể mấy đời, mời họ đi chạp giúp và cùng “thừa thần dư huệ” ăn cỗ cúng, uống ly rượu thắm tình bà con. Tiếc rằng bác Minh qua đời sớm nên từ đó, ông Đức phụ trách trưởng chi thứ tự nhiên gánh luôn trách nhiệm chi trưởng họ chính tại làng Mây hằng năm theo kiểu “miệng thầy cai, vai đầy tớ”. Không những thế, cả bà vợ cần cù chịu khó của ông cùng thản nhiên kề vai gánh vác mọi việc lẽ ra chưa đến lượt mình. Cũng may, anh An con cả bác Minh đều đều hằng năm gửi vài triệu về chung lo nên cũng đỡ đôi phần, tuy đôi khi ông Đức vẫn còn khó chịu với mấy cái lệ họ lệ làng ở quê nội lẫn quê ngoại.
Chuyện khó chịu đầu tiên của cái dở trong lệ làng lệ họ ở quê ngoại là sau lễ cúng đến mâm cỗ “thừa thần dư huệ” con cháu ngồi ăn. Chớ tưởng ai ngồi đâu cũng được, ngồi sai mâm theo thứ bậc dòng họ, chức tước trong làng sẽ bị nhẹ nhàng mời đến chỗ đúng vị trí thứ bậc. Trong đám con cháu tổ tiên, trước hết là Cụ Tiên chỉ, thứ đến là các bác trưởng họ, mà phải mời đi mời lại gãy lưỡi các vị mới chịu ngồi vào bàn cho. Sau khi các bậc trưởng thượng đã yên vị mới đến hàng con cháu đang đói rã ruột sau nhiều giờ chạy tới chạy lui lo việc chạp mộ, nhang đăng, cỗ bàn, đang nóng ruột chờ các cụ ngồi để còn ào ào ăn chống đói.
Chuyện khó chịu thứ hai thường gặp ở cả quê nội lẫn quê ngoại là mấy anh xa quê dù học cao đến mấy, chức vụ địa vị xã hội hiện thời ra sao, nếu chưa từng có lòng giúp đỡ bà con hoặc góp tiền ủng hộ chi phái, họ, làng xây dựng các thiết chế văn hóa đình, miếu, từ đường thì khi về làng chớ dại mà lên mặt, ra vẻ ta đây… sẽ bị đám bà con ở quê cho “chết máy”. Không lên mặt ta đây, nhũn như con chi chi trước đám bà con làng xóm, nhưng lỡ có ai hỏi han về chuyện xã hội trùng thế mạnh hiểu biết của mình như “rà trúng đài” rồi khoái chí nói không kịp phanh thì thế nào cũng bị một vài câu ca dao tục ngữ chê bai mai mỉa văng vào mặt, chẳng hạn Nói như rồng leo, mần như mèo mửa!
Nhớ lần về quê ngoại dự lễ giỗ chạp họ ngoại, anh Đức vẫn lè lưỡi về cái sự nghiêm của lệ họ lệ làng. Có lần anh Khởi là giám đốc một khách sạn lớn nên thường phải lo đủ chuyện để duy trì hoạt động của khách sạn, nâng cao mức sống của cán bộ và nhân viên để họ gắn bó với khách sạn, đó chính là thành công của mỗi giám đốc. Vì vậy, hầu như anh ít có dịp ghé về chạp họ mình, nói chi đến chuyện về làng dự lễ tế xuân thu nhị kỳ! Cứ bị bà con trong họ ngoài làng trách móc hoài, lần đó, sau khi họp với đối tác nước ngoài xong lúc mười giờ sáng, anh điện thoại báo tin cho hai em ruột là sẽ về dự ngày chạp họ. Khi về đến quê, dừng ô tô, anh vội vàng xuống xe đi vào nhà thờ họ, lễ mễ bưng một mâm cỗ cúng khi mà lễ cúng gần xong. Bác trưởng chi phái Nhì - phái của anh ngỏ lời nhắc nhở: “Lần sau cháu nhớ về sớm hơn nữa để dâng hương cho Ngài Cao tổ của cháu, cũng là cố Trưởng chi phái Nhì ta!” Anh xin lỗi và giải thích khối lượng công việc không cho phép anh tự do về đúng giờ được. Tưởng rằng bác Trưởng chi phái Nhì gật gù thông cảm là xong, ai ngờ anh con trai trưởng của bác - mà anh Khởi phải gọi bằng anh dù cậu ta kém hơn anh gần hai mươi tuổi lại móc họng: “Ham làm giàu chi cho lắm, họ hàng anh em mấy ai được nhờ!” Anh tức suýt hộc máu vì ai khác có thể nói móc vậy chứ nhà bác trưởng chi phái Nhì hiện có hai người con trai thứ đang làm nhân viên của anh, một người đang là trưởng một bộ phận có “nhiều màu mỡ”, vậy mà! Nén giận, anh vào thắp hương vái lạy tổ tiên, dĩ nhiên có đặt phong bì tiền cúng của một “suất đinh”. Mà nói thật, những lần không đi dự được, anh cũng luôn gửi tiền cúng, không nhiều, chỉ gấp chừng năm lần mức trung bình đóng góp của các “suất đinh” khác, lần này trực tiếp về chắc nhiều hơn. Xong việc, anh lặng lẽ ra đường lên xe về thẳng Huế. Từ đó đến nay anh bỏ luôn việc về họ về làng cúng giỗ, bỏ ngoài tai mọi lời chê trách mỉa mai. Ai chịu thiệt? Cái hậu quả mất đoàn kết do lối trách móc xỏ xiên ở quê giữa anh em họ hàng là vậy đó!
Nhưng rồi sau mấy chục năm chung lo việc họ hàng, làng nước bên nội bên ngoại, ông Đức bây giờ lại tâm đắc việc dân làng ta duy trì tốt truyền thống giỗ chạp ông bà tổ tiên để anh em xa bảy tám đời khi gặp nhau lần đầu vẫn mừng hơn trúng số! Ai đó nói “bán anh em xa mua láng giềng gần” chứ anh Đức thì nghiệm ra điều khác chút: Gắn bó họ hàng làng nước, kết bạn gần xa! Nhớ hồi nhỏ, khi còn ở với bà ngoại tại làng ngoại, năm nào cu Đức cũng được ăn cỗ chạp của họ ngoại, nay đã từ anh chuyển lên ông mà vẫn còn nhớ cảm giác thèm nắm xôi ăn với miếng lòng heo tươi ngon chấm nước mắm trộn ớt bột hồi nhỏ ở mâm cỗ trải trên lá chuối. Nghỉ hưu, thỉnh thoảng về làng ngoại, ông vẫn gặp gỡ đám anh em con dì, con cậu, rôm rả chuyện trò, lâu lâu xen vô ba câu chuyện chực chờ ăn cỗ hồi xưa, cười rớt răng!
Hồi ấy, đám con nít như cu Đức không kể trai gái, cứ đứng ngang tầm cây thước mộc trở xuống thì được ngồi chung “mâm lá chuối” trải dài dưới nền sân đất đã được các o các dì quét dọn sạch sẽ từ trước. Mỗi mâm dài ngắn tùy theo số lượng cháu chắt lau hau, thường là hai chục đứa, trải mấy lá chuối bà lùn còn tươi, to thiệt to, có khi hai lá ghép làm một. Trên mâm hoặc là một ụ xôi đầy ú và một nia thịt, bộ lòng, huyết heo luộc cũng tú hụ đầy. Ở giữa mâm xôi và nia thịt heo là mấy chén nước mắm nhĩ có pha ớt bột hay ớt tươi xanh cay xé lưỡi. Làng ớt mà! Bọn trẻ ngồi hai bên mép mâm cỗ, lễ độ khoanh tay chờ anh cả trong mâm xới xôi cho, đợi đứa mô cũng được xôi thịt đầy chén đọi rồi thì A lê! Anh cả hô một tiếng, cả bọn nhét ngay vô miệng một miếng thịt heo luộc chấm nước mắm nhĩ ngon nhức răng, nhai ngồm ngoàm một nắm xôi dẻo, cả hai món tạo vị ngọt thấu máu! Ăn một bữa cỗ chạp dưới làng ngoại trên mâm lá chuối trải giữa nền sân đất, nhớ cả đời vì rứa. Anh cả không phải lúc nào cũng là anh cả, vì anh cả năm trước có khi năm sau cưới vợ rồi, nên được thăng chức làm “đinh” có trách nhiệm góp tiền xâu cúng giỗ chạp, nên được ngồi vào mâm cỗ giữa làng, có bàn có ghế; không ngồi mâm lá trải giữa nền sân nữa. Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp là rứa đó, cu Đức chỉ hiểu câu tục ngữ ấy khi đã trở thành “đinh”.
Làng nội, họ nội lại khác chút: Sau lễ, đám con nít như cu Đức luôn được dành cho một vài mâm ăn trước các cụ. Hồi nhỏ, cu Đức thường bám ống quần mẹ mỗi khi lên làng nội thứ hai, tức làng Lành, cách làng ngoại chừng cả buổi đi bộ từ làng ngoại, qua hai con đò mới đến trước đồn binh Tứ Hạ rồi đi bộ thêm gần chục cây số nữa mới tới làng. Một hôm đò bị lật chìm, cả hai mẹ con suýt chết đuối, từ đó bà cấm con mình lên làng nội. Bà biểu cu Đức: “Đó có phải là quê nội chính gốc của con đâu! Đó chỉ là nơi ông bà cố nội con di cư lên ở tạm mà thôi! Dù bốn đời chứ ở đến mười đời cũng chỉ là dân ngụ cư, con nờ!”. Cu Đức nghe rứa biết rứa chứ chưa hiểu “dân ngụ cư” thì bị thiệt thòi gì mà nó cứ ẩn sâu trong câu nói vò xát chát chua lòng dạ của mẹ mình, mãi sau này gánh vác trách nhiệm, trực tiếp va chạm anh mới hiểu! Mấy năm sau, khi học lên lớp cuối cấp Trung học đệ nhất cấp ở Huế, Đức mới được mẹ cho đi một mình. Từ ngày chồng tập kết ra Bắc, chẳng biết khi mô gặp lại, nên bà rất sợ mất hai thằng con. Thằng cả đã vô Sài Gòn ở với cậu ruột, thằng út là thằng Đức, bà phải giữ chớ sao! Nhờ thế, Đức ta hiểu được rất nhiều điều, ví dụ tế làng được mời mới đi dự, chạp họ con cháu nội phải chung lo, con cháu ngoại có lòng thì đóng góp cúng tổ tiên bên ngoại… và nhiều quy định lễ tiết khác mà con nhà gia giáo phải thành thục. Và ông Đức sau khi làm cha ba đứa nhỏ liền trở thành người phụ trách chi thứ họ Huỳnh ở làng Lành, kiêm “được tin tưởng giao nhiệm vụ” thay bà con chi trưởng họ Huỳnh ở làng nội gốc mỗi năm kéo anh em trên làng Lành về làng Mây chạp họ, cũng là chạp mộ chi trưởng! Thêm việc, thêm chuyện, thêm va vấp, thêm nhiều lần bị gièm pha, ông thấm thêm nhiều điều.
Mộ chi trưởng có hơn trăm ngôi, ở rải rác năm làng, ba xã. Riêng lăng mộ Ngài Tổ khai phái và một vài Cụ con cái của Ngài thì xây tại các đồng cát trắng của làng Chiếu. Số là làng Mây có ông quan lớn triều đình xưa, cấm chỉ dân làng không được chôn cất mồ mả trong làng, phải đi mua đất đồi cát làng Chiếu ở bên kia sông, khác xã khác huyện. Thằng cu Đức hồi nhỏ chỉ được mẹ dẫn về làng nội gốc dự chạp mộ tổ tiên vài lần thôi mà nhớ mãi. Đó là lần hắn được bà cô (chị của ông nội hắn) lôi đi khắp làng cho biết bà con làng nước thì hắn mới biết làng mình có con sông nhỏ ven đường làng, màu nước đen kịt và đặc kín bèo lục bình, có chiếc cầu bắc qua chợ bên kia sông mà có lần hắn vô ý vừa đi vừa dòm bị rơi tòm xuống nước! Rồi lần thứ hai, khi đến lăng mộ Ngài Tổ bảy đời, cu Đức thích thú chạy vòng quanh ngôi mộ được tôn cao bằng cát trắng, cảm tưởng như to bằng cái đình làng ngoại. Mãi vừa đi vừa hồi tưởng, ông đã bước vào nhà người bà con khi nào không hay.
- Anh Đức! Mới về à?
- Lợi! Chú hôm nay không đi làm à?
Lợi là em bà con ở quê, cháu nội của bà họ Huỳnh bên ông Đức, con cháu ngoại mấy đời của họ Huỳnh nhưng rất nhiệt tình lo chuyện chạp mộ họ ngoại của ngoại, lại là người thuộc lòng tất cả lăng mộ, kể cả những ngôi mộ đất lẻ rải rác năm làng, ba xã vì là thợ chính xây uynh hoặc lăng cho nhiều ngôi mộ cho tổ tiên bà con họ Huỳnh của ông Đức nhờ tiền bác Thông bên Mỹ gửi về, tiền bác Minh hỗ trợ, còn lại ngôi lăng Ngài Tổ khai phái và các ngôi mộ khác do ông Đức và bà con làng Lành đóng góp. Vì thế mỗi năm trước khi chạp họ, ông Đức luôn phải liên hệ trước với chú Lợi, không kể ngẫu hứng về thăm.
- Anh làm viên chức nhà nước nên quên việc làng là phải, không trách anh mô! Tui mấy năm ni phải vô Ban tổ chức Lễ tế làng rồi.
- Nhiệm vụ?
- Nhang đăng.
- Lo liệu việc thắp đèn thắp hương cũng mệt dữ chớ chơi à?
- À, anh cũng chuẩn bị phải lo việc đối ngoại rồi đó!
Chưa được giao nhưng ông Đức đã thầm nghĩ: Các cụ cũng khéo dữ! Chọn mình lo đón tiếp quan chức xã, huyện thì đúng rồi. Cầm dùi thì gõ trống chiêng thôi! Giao tiếp là chuyện “khỏe re như con be be”. Ông Đức thầm cười.
Té ra không phải dễ. Tí nữa u đầu mẻ trán vì “đối ngoại”! Nguyên do: Mộ của cả họ Huỳnh và các họ ở làng Mây an táng rồi xây lăng dựng bia đều ở quanh mấy cồn cát làng Chiếu mà các cụ trưởng tộc ngày xưa đã bỏ tiền mua. Dù vậy thợ nề xây lăng ở làng Mây phải có quan hệ đối ngoại với thợ nề và bà con làng Chiếu mới yên ổn mà làm. Việc quan trọng nhưng lâu nay chưa giải quyết triệt để dẫn đến nhiều lần va chạm, may chưa có chuyện ẩu đả xảy ra. Nhưng năm nay, khi Cu Tèo làm đầu nậu, mọi sự có vẻ căng. Anh Đức được giao đối ngoại vì có mấy o con gái làng Mây sang làm dâu bên làng Chiếu nên biết chuyện, khi đi chợ bèn hé môi thì thầm chuyện gì đó với dân làng mình. Cả họ cả làng chừ chỉ trông vào anh Đức. Đành ráng vậy!
Cu Tèo là tên của đầu nậu đất mồ mả bên làng Chiếu, khét tiếng khó chơi khắp hai huyện. Hắn vừa nắm chắc luật lệ - cử nhân luật hệ chính quy mà, lại vừa có võ - không phải võ mồm đâu…. Nghe đâu hắn đòi vài chục tờ “màu xanh không có Cụ”, nếu không được thì... nghe nói hắn từng đấm vỡ cả 3 viên gạch nung chín chồng lên nhau, gạch thật còn nguyên, chẳng phải kiểu biểu diễn võ thuật đấm gạch đã nứt sẵn để lòe thiên hạ… Tài võ nghệ như rứa e chẳng thua gì cháu Ban, sinh viên trường Luật, khi trước từng lên ở trọ nhà mình… vậy thì làm sao đối ngoại cho phải đạo, đối đấm không bể não đây, hở anh chàng… võ khoai võ môn? Ông Đức vò đầu một lúc rồi cũng đành vặn hai bàn tay: Đến mô hay nấy! Ơ mà Cu Tèo cũng từng là sinh viên trường Luật như Xuân Ban, không chừng hai đứa biết nhau? - Ông Đức chợt nghĩ rồi lại thầm khấn Trời khấn Phật!
- Răng đây? Muốn chơi văn hay võ? - Cu Tèo dằn giọng khi thấy “đoàn ngoại giao” của làng Mây bước vào nhà hắn. Dù sao cũng là trí thức chính hiệu, hắn chỉnh lại áo quần tươm tất rồi bước ra bệ cửa nhà chính mời đoàn vào nhà. Khi vừa thấy ông Đức bước vô, hắn chợt sững người một chút rồi hắng giọng chào hỏi ông:
- Chào bác! Bác quê ở làng Mây hả?
- A! Chào cháu, lâu ngày chừ mới gặp - Ông Đức vui mừng bắt tay Cu Tèo.
Té ra Cu Tèo chính là Nguyễn Xuân Ban - Cựu sinh viên trường Luật đã có thời gian dài ở trọ lại kèm cơm ăn miễn phí ở nhà mình. Thiệt là hên! - Ông Đức vui thầm.
- Cháu tốt nghiệp xong, ông bà già chưa xin việc cho à?
- Dạ, cháu muốn tự lực bác ạ! Ba mẹ cháu cũng không có khả năng.
Vụ việc tranh giành chuyện xây lăng giữa đám thợ nề hai làng tưởng chừng vô phương giải quyết bỗng được giải quyết gọn lẹ trong chưa đầy tiếng đồng hồ. Từ nay, anh em thợ nề làng Mây chuyên xây lăng mộ ở khu đồng cát làng Chiếu cứ việc sang xây thoải mái, xây xong nhận tiền gia chủ rồi trích phần trăm góp cho chi hội Nông dân làng Chiếu (trong đó có nhiều thợ nề chuyên nghề xây lăng mộ) chút ít gọi là lễ. Cuối mỗi năm chi hội Nông dân làng Chiếu sẽ tổng kết và mời đại diện chi hội Nông dân làng Mây sang dự liên hoan, miễn mang phong bì. Nếu có ai riêng lẻ muốn gây khó dễ, cứ gặp anh Cu Tèo giải quyết. Ok chưa? Ok!
Bột phát, anh Đức ngỏ lời mời Cử nhân Luật Nguyễn Xuân Ban và cả Ban chấp hành Chi hội Nông dân làng Chiếu sang dự tiệc sau lễ Thu Tế của làng Mây. Sẽ báo cáo với bác Tiên chỉ và các bác trưởng tộc sau. Nếu chẳng may các bác không đồng ý thì mình sẽ mời Cu Tèo ra quán để hai bác cháu vừa nhậu vừa ôn kỷ niệm thời Ban đi học, thế thôi! Ít nhất qua 5 lễ: - Túc Yết, cúng cô hồn, Chánh tế, Bái và lễ Tất, làm rút gọn cũng mất hơn ba tiếng đồng hồ, kết thúc chắc sau năm giờ chiều, nhậu vừa đẹp, mình bỏ tiền túi ra lo! - Ông nghĩ và quyết luôn. Mọi sự sau đó như ông suy nghĩ, tính toán đã diễn ra êm xuôi vượt dự tính, nhất là sự chấp thuận nhanh chóng của các Cụ mời Cử nhân Luật Nguyễn Xuân Ban cùng Ban chấp hành Chi hội Nông dân làng Chiếu và đại diện chi hội Nông dân làng Mây vào dự tiệc ngồi cùng các Cụ ở mâm trên, một sự đón tiếp long trọng với người trẻ tuổi khác làng, khác huyện khiến anh Cử nhân Luật làng bên vui ra mặt, anh em đại diện chi hội Nông dân của hai làng cũng vui lây. Ông Đức khỏi phải chi tiền riêng. Các cụ đâu có bảo thủ - Ông vui mừng nghĩ.
Sau vụ làm “phái viên ngoại giao của làng Mây” đó, uy tín ông Đức dâng cao trong làng, không có ai gọi ông là “dân ngụ cư” nữa! Nhưng cũng từ đó, cứ bà con làng Mây và làng Chiếu có chuyện gì trúc trắc lại tìm ông. Mệt thật nhưng ông bình thản làm giúp, việc gì không làm được thì nói thật, từ chối thẳng. Bà con ai có tư tưởng “tiền là tất cả” dở hơi đưa phong bì, ông từ chối phắt. Nhưng ai đem chút quà quê như mụt măng La Ngà hay vài cân khoai lang nhà trồng, chục quả trứng gà nhà nuôi, vài ba lon gạo nếp nhà mới thu hoạch, ông vui vẻ nhận. Thế là tình cảm càng ngày càng gắn bó, lâu lâu ông lại bị hai ông Chi hội trưởng Nông dân hai làng “A lô, anh ở mô?” “Chờ hai chú gọi để đi nhậu đây!” Cuộc nhậu lai rai nếu biết dừng đúng lúc sẽ gắn bó tình cảm rất nhiều! Và bây giờ phải thêm: Cần có phương tiện chở về nhà sau khi nhậu. Thế là ổn! - Ông Đức nghĩ.
Tàn tiệc, hiểu lệ làng, ông Đức xắn tay cùng bà con lo dọn dẹp bàn ghế và đem chén bát xuống bếp cho đám chị em rửa. Một sự phân công rất khoa học, ông nghĩ thế! Vừa đi từ nhà ngang lên, bất chợt ông thấy có một ánh mắt nhìn mình, vừa e thẹn vừa thắm thiết. Ai vậy?
- Chào chú, à chào anh!
- A … Mận! O là… là bà con cách răng? - Ông cán bộ phong trào nổi tiếng hoạt ngôn bỗng lúng túng thấy rõ.
Đó là o Mận, tên khai sinh và đi học là Huỳnh Thị Mai, cùng họ, chắc thế - ông Đức nghĩ thầm. Hồi trước mình biết o nớ họ Huỳnh nhưng cũng không lưu tâm. Chừ về tế làng mới gặp lại, cùng họ cùng làng thì bà con là cái chắc. Có điều… bà con cách răng mà đổi cách xưng hô từ chú sang anh? Nhớ lại hồi nớ nhà mình nghèo có mảnh vườn rộng nên vợ chồng bàn nhau xây thêm một vài phòng cho sinh viên đại học thuê trọ. O Mai là một trong ba cô sinh viên thuê trọ, cũng là cô sinh viên lớn tuổi, có vẻ già dặn hơn hai cô sinh viên non choẹt kia và giỏi nấu ăn nhất. Với tư cách chủ trọ, ông Đức tỉ mỉ hỏi han về quá trình học tập của cô ta. Thật đáng cảm thông! Cô học sinh giỏi Văn và Toán của trường THPT Hương Thủy thi đậu ngay năm đầu tiên vào Trường Du Lịch nhưng cha mẹ nghèo không cho đi học vì sợ không đủ tiền chu cấp cho con, hơn nữa nghề đó nghe đâu khó kiếm ra tiền, mà học xong đi vô Nam thì cha mẹ càng lo. Vậy nên cô xoay sang học nghề đầu bếp, cũng tại trường đó, học xong được nhận vào thử việc tại một khách sạn lớn rồi được nhận vào hợp đồng. Ba năm sau, tích lũy chút lương, khát vọng học đại học của cô vẫn cháy bỏng, thế là cô quyết định nghỉ việc, ôn luyện bài vở, thi đậu vào Khoa Nông học - Trường Đại học Nông Lâm. Từ năm hơn mười tuổi, cô bé Mai đã cùng cha mẹ ra đồng màu cuốc đất, lên luống trồng khoai, sắn và cà, đậu, rau các loại; nên chuyện thực hành nông trại ở trường chắc chắn không làm khó được cô. Vì vậy, cô trở thành cô sinh viên năm Nhất lớn hơn sáu tuổi so với các tân sinh viên vừa tốt nghiệp THPT. Mấy chị em rủ nhau đi loanh quanh các phố gần trường tìm chỗ cho thuê trọ, cuối cùng vô nhà mình.
Dù cô ta có gọi vợ chồng mình là o, chú thì mình đã qua tuổi tri thiên mệnh, sắp lên lão nên có lúc cũng hay quên, nhất là khi bắt gặp ánh mắt biết nói nhiều điều thì mình buột miệng gọi trỏng tên cô ta chứ không gọi là cháu. Cũng may, dù có khi ra đụng vào chạm vô tình hay hữu ý chẳng biết, nhưng cả hai cùng cố giữ khoảng cách nên kết thúc khóa học, cô ta nhận bằng Kỹ sư Nông học xong thì thản nhiên “Cám ơn o chủ nhà! Con chào o con về!”, còn với chú Đức chủ nhà thì ngoài cái cúi đầu và lời chào, cô Kỹ sư Nông học còn ý tứ gửi kèm đuôi mắt dài kín đáo như dây mồng tơi. Mình vừa buồn vừa mừng vì từ nay không còn nghĩ ngợi lộn xộn nữa. Vậy mà về tế làng kỳ ni lại gặp o Mai là em họ mới chết chứ! May mà có cái chuyện chạp phái chạp họ, tế làng mới biết bà con máu mủ! Hoan nghênh họ và làng ta duy trì truyền thống tốt đẹp của làng quê Thừa Thiên, giúp những người cùng họ cùng làng nhưng chưa từng biết trở nên gần gũi, thân thiết! Đúng như câu răn dạy của các cụ tiền nhân “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”. Ý nghĩa vừa thiết thực vừa sâu xa về duy trì tổ chức ngày giỗ chạp ở làng quê ta là vậy, quý lắm! Bớt cái dở thì còn hay hơn!
Trường hợp chú Lợi cũng thế. Sau khi về làng vài lần cùng bác Minh mới rõ bà Cố nội chú nớ là em ruột ông Cố nội mình, thế là từ đó mỗi khi có chuyện người nhà ốm đau hay trục trặc chuyện gì, chỉ cần chú ấy a lô một cái là mình xăng xái giúp liền, cũng đạt hiệu quả gần trăm phần trăm, nên chi tình anh em bà con càng ngày càng thắm thiết, bằng chứng là hai anh em từng gầy mấy chục cuộc nhậu vui vẻ chứ ít đâu! Một hôm trời nhá nhem tối, mình đi làm về, loạng choạng tông trúng một chiếc xe Honda cũ đang chạy từ phía đường Phạm Văn Đồng lên Huế. May mà đụng nhẹ vì mình đi xe máy như đi xe đạp, hai xe tuy lăn quay nhưng vẫn nổ máy bình thường. Mình vội vàng đứng dậy dựng xe, phủi quần áo xong, chạy tới chỗ ông kia hỏi xem thế nào. Ai ngờ ông kia vừa rên ư ử vừa nói: Anh Đức, anh đi mô mà vội rứa? À té ra chú Lợi. Rốt cục, mình gửi cho chú vài trăm tiền sửa xe, xong hai anh em hẹn nhau về làng nhậu xả xui. Hết! Ông Đức hồi tưởng rồi cười một mình.
- Có chi vui mà anh cười rứa ? - O Mai hỏi.
- À, may mà hồi nớ… - nói xong ông ý tứ nhìn o, o vội vàng cụp mắt xuống. Ông nhanh trí đổi ý câu trả lời: À, may hồi nớ vợ chồng tui tính giá cho thuê trọ rẻ cho o và bạn o chứ răng nữa!
Dừng lại một chút, ông hỏi: “À, em với anh bà con răng hè?”. Chữ “em” lần này ông nói một cách rõ ràng, trong sáng vô tư, nhẹ bâng.
- Bác Minh chưa nói cho anh biết à? Ông Sơ nội của em là em con chú với ông Sơ nội của anh, tức ông Cố nội bác Minh. Nên em được quyền gọi anh bằng anh chớ răng!
Chà chà! Ăn nói rõ ràng rành mạch ghê, đúng là cử nhân, à kỹ sư có khác! Như vậy là bà con bên nội sáu đời. - Ông Đức nhẩm tính. Bà con xa bắn đại bác không tới. Nhưng năng qua năng lại, gặp gỡ nhau hoài thì tình bà con càng gần gũi thân thiết - Ông Đức vui thầm.
- À, cuối năm ni đám cưới em, anh chị nhớ về dự chúc mừng em nghe! - O Mai mời.
- Mời thì đi, không mời ai đi!
Ông Đức bắt chước lối nói “chua ngoa dấm dẳn” của các o em họ, kèm cái nguýt dài làm bộ khiến o Mai và mấy chị em khác cười khúc khích cả buổi. Có o còn ghê gớm hơn, khẽ nói nhỏ với o khác: May mà bà con! Tướng nớ ra đường khối đứa con gái còn chạy theo! Chị Kim ơi! Lo giữ cho chặt kẻo mất zôôn đó nghe! - Một loạt tràng cười giòn giã liên hồi.
Ông Đức tảng lờ như chẳng nghe thấy gì, thong thả ra ngoài sân dọn dẹp tiếp.
Chợt nhớ lại chuyện tông xe chú Lợi và chuyện gặp cu Tèo ban sáng, ông càng thấm thía câu thành ngữ Tình làng nghĩa nước và cái câu tục ngữ Một giọt máu đào hơn ao nước lã. Vươn vai hít một hơi dài rồi từ từ thở ra, ông sảng khoái ngắm nhìn hai hàng chè tàu xanh mướt được cắt tỉa gọn gàng mà rõ nhất hai đầu hàng là hai con hạc nổi cao hơn hẳn ở lối đi vào đình làng. Phấn chí, ông vươn hai tay, buông lời cảm thán: Ôi! Quê hương ta đẹp quá!
H.S
(TCSH431/01-2025)