Chúng tôi về Quảng Thọ sau mùa mưa lũ, nước sông Bồ còn cao. Đồng đang còn mênh mông nước. Dân đang chờ nước xuống để vào vụ Đông Xuân. Các thôn Phò Nam A, Phò Nam B, Phước Yên, Lương Cổ, La Vân Thượng, La Vân Hạ... như những hòn đảo xanh nổi trên mặt nước. Về Quảng Thọ lần này rất thú vị là Hội đồng nhân dân xã đang họp trên hội trường ủy ban xã với nội dung sôi nổi: xã muốn nghe các trưởng thôn báo cáo cho chính quyền biết nhân dân đang bức xúc điều gì, để xã tìm cách lo cho dân. Tôi hỏi anh Minh, Chủ tịch hội đồng nhân dân, Bí thư Đảng ủy xã: - Nhân dân đang bức xúc điều gì vậy? Anh Minh đáp: - Chỉ bức xúc hai điều thôi, anh ạ. Một là sau lũ lụt, trên hai con đường Phò Nam A đi Phò Nam B dài 2 km và từ Phước Yên đi La Vân Hạ dài 5 km, đất bị sạt lở dữ quá, 9 hộ gia đình bị lở mới tạm ổn định. Điều thứ 2 là điện ở Quảng Thọ mất dữ quá! Có điện mà dân vẫn phải ăn cơm đèn dầu. Máy bơm nhiều lúc cần hoạt động lại không có điện. Đề nghị trên quan tâm cho cả hai điều đó.
Rõ ràng Quảng Thọ đang tiếp tục cần đầu tư. Tôi biết còn một điều thứ ba ở cuộc họp này dân không nói, nhưng ngồi đâu cũng thấy dân ca cẩm, đó là trạm y tế xã đã quá xuống cấp, nhiều lần đề nghị sửa chữa. Trên đã hứa, nhưng đến tận bây giờ vẫn chưa được nâng cấp. Dân Quảng Thọ trải bên sông Bồ đông đúc, có tới 7515 người của 1512 hộ. Và đất canh tác toàn xã 500 héc-ta. Nghề truyền thống trên đất ấy là nông nghiệp. Cho đến bây giờ người nông dân đang còn vất vả lắm. Theo như anh Hồ Huy Thạnh, Chủ nhiệm Hợp tác xã 2 thì: - Do đầu vào cho cây lúa quá đắt, từ nhân giống, thuốc trừ sâu, nước đều không thể thiếu vậy nên một sào lúa, dân chỉ lãi 150.000 đồng. Còn nuôi một con lợn suốt ba tháng, bán đi cũng chỉ lãi được 100.000 đồng. Mặc dù năng suất lúa rất cao, đạt tới 62 tạ một héc-ta. Anh Thạnh nói tiếp: - Đợt các mặt hàng tăng giá vừa rồi, nông dân chúng tôi kinh hoàng. Không biết số phận cây lúa của mình ra sao. Nghe một chủ nhiệm hợp tác xã nói như vậy, tôi thấy lo. Tôi băn khoăn hỏi: - Vậy làm sao người nông dân Quảng Thọ sống được? Anh Thạnh đáp: - Quả thật nếu chỉ trông vào cây lúa thì lo quá. Song người nông dân chúng tôi bụng đói thì đầu gối phải bò. Trên đồng ruộng, chúng tôi thực hiện dồn điền, đổi thửa. Có chỗ vốn là đất lúa, bây giờ bỏ lúa, trồng màu, thậm chí đào ao thả cá nữa. Màu trồng đủ thứ rau, mỗi sào đạt từ 7 triệu đến 10 triệu đồng. Còn rất may chúng tôi có hệ thống nước sông Bồ, bà con thả cá. Hiện nay toàn xã có tới 230 lồng cá. Mỗi lồng một năm cũng lãi từ 7 đến 10 triệu đồng. Anh Võ Lạc, Trưởng thôn La Vân Hạ cho biết thêm một điều tường tận: - Đất chúng tôi ít, nên sau vụ cấy, vụ gặt, sau Tết, những lao động thừa của chúng tôi đi làm thuê, làm mộc, làm nề, số rất đông lên tận Tây Nguyên giúp họ trồng cà phê. Những gì dùng sức lao động để kiếm ra đồng tiền, chúng tôi làm hết. Có vậy mới mở mày mở mặt được.
Tôi có cảm giác người nông dân Quảng Thọ đang tiếp tục vắt sức để nâng cao đời sống của mình. Đi vào đời sống hết sức cụ thể, quả là dân Quảng Thọ có ý thức đầu tư cho tương lai. 100 phần trăm các cháu đến tuổi, đều đưa tới lớp mẫu giáo, cấp một và trung học phổ thông cơ sở. Không kể mẫu giáo, hai trường tiểu học và một trường Trung cấp cơ sở đã có 790 cháu đến học (có một số cháu ở 2 xã bên các thôn gần Trường cũng có cho con tới học). Riêng năm 2007, Quảng Thọ có 50 cháu thi đỗ đại học và 70 cháu đỗ vào trung cấp. Cứ tính sơ sơ, cứ 10 người dân Quảng Thọ thì có một người cắp sách tới trường. Đó là một con số đáng mừng. Tôi hỏi anh Thạnh: - Anh có thể nói đời sống cụ thể của dân Quảng Thọ hiện nay như thế nào? Anh Thạnh đáp: - Nhà nào cũng có con em đến trường. Cứ 100 hộ thì 90 hộ có ti vi, 70 hộ có xe máy, và hầu như nhà nào cũng có điện sáng, tuy chưa sáng đều như chúng tôi đã nói. Anh đi lại khắp xã mà xem, nhà tranh tre nứa lá hầu như không còn, tất cả đã được thay bằng nhà xây. Gió bão không đến nỗi lo nữa.
Các anh trưởng thôn ngồi xung quanh, đều nhất trí: đời sống nhân dân còn khó khăn nhưng gia đình nào cũng cố gắng tổ chức một đời sống cho ổn định. Có không ít gia đình cho con đi học đại học phải vay tiền, kể cả vay ngân hàng. Nhưng không một ai không lo cho con, đó là tương lai của mình. Anh Võ Lạc kể: - Điều dân chúng tôi rất mừng là xã có ý thức sắp xếp, tổ chức cho dân sống bằng tập tục của dân làng đã hàng mấy trăm năm tề tựu với nhau. Các tộc họ quây quần, tháng 8, tế lễ ngài khai canh cho con cháu nhớ tổ tiên. Tết có lễ hội ngày xuân vào 20 tháng Giêng, lễ hội xuống đồng, cầu mong mưa thuận gió hòa. Ngày ấy, chúng tôi tổ chức đua ghe, thanh niên cho đá bóng. Bà con nhắc nhau thực hiện các chủ trương của nhà nước như một cặp vợ chồng chỉ nên có hai con. Nếp sống văn hóa ấy bà con thấy gần nhau, điều quan trọng là mọi người ý thức được mình nên sống với nhau như thế nào cho đúng là phải “xóm giềng tắt đèn tối lửa có nhau”.
Lúc đợi các trưởng thôn họp hội đồng nhân dân, chúng tôi có đi một vòng quanh làng Phước Yên, làng xóm rất sạch sẽ, nhà nhà ăn ở ngăn nắp. Sáng rực các đường xóm là các nhà thờ họ, không đồ sộ, nhưng đẹp, các màu xanh đỏ vàng và bố cục hình khối rất hài hòa. Rõ ràng các dòng họ đã quy tụ lại để con cháu biết phận mình. Điều chúng tôi thầm hiểu là các dòng tộc ở Quảng Thọ rất có ý thức về dòng máu của mình. Đó là một nét văn hóa rất đặc trưng của Việt
. Bên cạnh nhà thờ họ, đình chùa các làng cũng được xây cất đàng hoàng. Tôi khen: - Nhà thờ họ ở Quảng Thọ rất đẹp. Một người đàn ông đi bên đường đáp: - Chúng tôi thường nghe hát trên đài: “Quê hương nếu ai không nhớ, sẽ không lớn nổi thành người”. Gia đình, họ tộc chính là quê hương chứ gì. Tôi nói: - Người dân Quảng Thọ nào cũng nghĩ được như ông, thì rất mừng. - Dân chúng tôi đều nghĩ vậy cả. Và mọi người đều sống bằng quy ước do chính dân làng mình bàn bạc và quy định với nhau. Không nghi ngờ gì, nếp sống ở Quảng Thọ đã ổn định. Tôi hỏi anh Minh: - Sự nỗ lực của dân là rất quan trọng, nhưng sự đầu tư của nhà nước cho Quảng Thọ ra sao? Anh Minh đáp: - Không có nhà nước đầu tư, thì quả thật khó có một Quảng Thọ như ngày nay. Chắc anh đi đến đâu cũng nghe 4 chữ: điện, đường, trường, trạm. Hệ thống điện, và đường trong xã có thể gọi tạm thời bằng lòng với nhau. Đường các thôn đã được thay đường đất bằng đường xi măng, nhà nước cho 7 phần, dân góp 3 phần. Còn trạm y tế, trường học, do nhà nước cấp hết. Toàn bộ hệ thống kênh mương đã đạt 60% yêu cầu. Trong hai năm nữa chúng tôi sẽ hoàn chỉnh. Anh về nông thôn vào vụ mùa, anh sẽ thấy nông nghiệp đã được hiện đại hóa khá tốt, máy nước đổ nước vào đồng. Nông dân không dùng trâu kéo cày nữa, mà cày máy hết, rồi gặt cũng bằng máy, tuốt lúa cũng bằng máy. Canh tác miền quê cũng được thay đổi nhiều.
Các trưởng thôn ngồi quanh tôi kể chuyện mỗi lúc một hào hứng. Nhất là xã tổ chức cho dân góp ý với các cán bộ xã, từ chủ tịch tới mặt trận, thanh niên phụ nữ... xã cho dân nói hết. Sai đâu cán bộ xã sửa đấy. Nghe chuyện mà tôi thấy tiếc là giá mình được dự những cuộc họp đầy màu sắc dân chủ ấy. Anh Minh chỉ người trưởng thôn ngồi trước mặt tôi: - Anh Trần Phùng Phú đó, một trưởng thôn, không phải do Đảng cử, mà các đoàn thể và nhân dân đề cử, và bầu bằng phiếu, trúng trưởng thôn. Anh Phú nói: - Đúng như anh Minh nói anh ạ. Muốn dân bầu, thì dân phải tin, phải gởi gắm được quyền lợi họ trong đó. Tôi sẽ cố gắng làm tốt nhiệm vụ của mình, không thể phụ lòng tin của dân được, mặc dù tôi chỉ là quần chúng, không là đảng viên. Anh Minh nhấn mạnh: - Nhiều đảng viên của ta còn trẻ quá, chưa có kinh nghiệm, mà dân đã không tin ai thì người đó khó mà hoàn thành nhịêm vụ của mình. Ví dụ như một việc thôi, anh nói “chuyển đổi cây trồng” mà anh không có kinh nghiệm làm sao anh thuyết phục nổi người ta. Anh nói: phải cấy giống mới, mà chưa trồng, chỉ nói theo sách, chắc chắn không thể thuyết phục người nông dân kinh nghiệm đầy mình. Vì vậy điều trước tiên của trưởng thôn là phải được dân tin, dân yêu.
Chuyện xoay quanh người nông dân với làng quê và nghề nông của họ tưởng như không thể dứt. Tôi chợt hỏi: - Dân mình có đề xuất ý kiến gì với trên không? Mọi người đều hăng hái phát biểu. Ý kiến xoay xung quanh mấy điểm. Một là phụ cấp trưởng thôn 540.000 đồng thì ít quá. Lương cho các cán bộ đoàn thể chưa hề có. Hai là hệ thống cơ sở hạ tầng đã có nhưng còn cần bổ sung, nhất là đường sá, nước ngọt. Ba là đề nghị nhà nước đầu tư kỹ càng về vốn, về khoa học kỹ thuật, về chuyển đổi cây trồng. Có vậy người dân mới có điều kiện để nâng cao đời sống cho mình. Bốn là cần có chính sách bù lỗ để khuyến khích nông nghiệp. Nghe nhiều nước đã làm, ta có làm được không?
Rõ ràng về nông dân, nông thôn nông nghiệp cần được điều tra thật kỹ càng để nghị quyết của trên thật sát, mới có hiệu quả, chứ nói xong quên ngay, hoặc nói xong bỏ đó, thì nông dân còn vất vả lắm. Sau cuộc gặp gỡ, lúc sắp ra về, anh Minh nói tâm trạng mình như một lời tâm sự: - Quảng Thọ có 13 chi bộ, mà chỉ có 2 chi bộ được công nhận là trong sạch, vững mạnh. Bây giờ đã đến lúc nói thật với nhau rồi anh ạ. Như thế có nghĩa là 11 chi bộ còn yếu kém. Ở nông thôn không chỉ chú ý đến tam nông, mà rất cần chú ý đến chi bộ đảng kề ngay bên nách người nông dân nữa. N.Q.H
(nguồn: TCSH số 239 - 01 - 2009)
|