LÊ HÀ
Tùy bút
Vạt mây bay qua đỉnh núi. Vạt mây bay ngang mái nhà. Vạt mây đi ra từ những rừng hoa mận trắng. Vạt mây là đà trôi trên cánh đồng hoa cải kề bên chân núi.
Chúng tôi dừng xe lại, thong dong ngồi xuống thảm cỏ xanh bên vệ đường, chờ đám mây kia chạm xuống những đóa hoa ban, hoa mận, hoa dã quỳ như ánh nắng mang màu mật ngọt của rừng già đang chạm lên cây lá. Tôi ngắm nhìn vẻ đẹp của đất trời đang chạm vào tim mình, nghe sự hồi sinh chậm rãi bật mầm.
Sơn La đón chúng tôi bằng ánh nắng nhẹ như nụ cười e ấp của cô gái Mông đang mang gùi chậm bước lên nương. Chiếc váy hoa sặc sỡ bay bay theo từng bước chân chắc khỏe nhịp nhàng. Cô gái băng qua cánh đồng xanh rì rào, trèo qua các sườn núi trắng màu hoa mận. Tiếng ca vắt vẻo nơi lưng chừng mây núi hòa vào nhau. “Em nắm tay anh nắm cho vững/ Anh cầm tay em cầm cho chặt/ Ta yêu nhau đằm thắm như khóm ngải xanh tươi…”. Điệu gầu plềnh như tiếng lòng ai thủ thỉ chìm trong mây ngàn, vương vấn, dìu dặt, si mê.
Tháng mười hai ở núi. Trời có nắng nhưng rét lạnh căm căm. Không giống Huế của tôi, thành quách đền đài chìm trong mưa mù ướt lạnh. Cái rét ở núi cao mượt như sợi chỉ thêu trong hộp của bà, những trưa mùa đông có nắng, bà hay ngồi bên hiên nhà thủng thẳng thêu vài ba thứ, một đóa hoa mai trên chiếc áo dài đã cũ, một bông cúc trắng trên chiếc áo dài đen. Bóng dáng bà tôi chẳng hiểu sao lại chìm trong bóng dáng người đàn bà đang ngồi dệt vải trước hiên nhà bên chân núi. Căn nhà gỗ thấp lè tè, ẩn hiện trong sương núi, vừa hoang sơ và lạnh lẽo. Nhưng tôi chắc chắn, ngồi trong ngôi nhà đó sẽ mát lạnh biết mấy vào những ngày hè chang chang nắng. Và giờ này của mùa đông, sự ấm áp khi ngồi bên trong hẳn đủ làm trái tim ta đập lên những nhịp rộn ràng. Nhất là nụ cười của bà cụ nơi ấy, tươi như một nụ hoa bung nở giữa rừng già, ấm như mặt trời vừa rẽ mây giữa ban mai đầy sương.
Tôi nhớ đôi tay nhanh nhẹn của Xéc Phụn Ku khi chị ngồi bên hiên nhà dệt vải. Mây núi như sà xuống, lượn lờ bên chân người con gái Mông có nụ cười tươi roi rói. Những tấm vải lanh được dệt khéo léo. Hoa văn vẽ bằng sáp ong. Màu chàm thâm trầm, hoài niệm như những câu chuyện bí ẩn chốn đại ngàn. Những đường thêu sặc sỡ phải chăng là ước mơ rực rỡ của người con gái vừa mới lớn.
Xéc Phụn Ku nói rằng, người con gái Mông 10 tuổi đã biết se lanh dệt vải. Họ lớn lên bên nương rẫy. Sáng lên nương. Tối ngồi bên khung cửi. Bà truyền cho mẹ. Mẹ truyền cho con. Con gái lớn lên về nhà chồng, sinh con, lại truyền nghề dệt vải cho con gái. Cứ nhìn nhau mà làm. Từ đời này qua đời khác. Và những chiếc váy Mông đẹp đẽ ấy theo thời gian mà lặng lẽ chạm vào lòng những khách phương xa.
Tiếng con gà trống gáy vang trên cây hồng trước căn nhà gỗ nhỏ trên đường vào bản Pa Phách (xã Đông Sang, huyện Mộc Châu). Cây hồng đã rụng hết lá, chỉ còn lại vài quả hồng kiên trì đậu lại trên cây. Tiếng gà gáy làm giọt sương đậu trên cành giật mình rớt xuống. Sương núi đã làm mờ nhòe sắc đỏ của quả hồng già. Đứa trẻ đang đuổi theo con chó đốm bên dưới gốc hồng. Vừa chạy vừa cười. Sợi dây giăng ngang giữa hai cây hồng, phơi mấy chiếc váy hoa sặc sỡ. Tôi thích những căn nhà gỗ nhỏ bé kề lưng vào núi ở xứ này. Con đường đất dẫn vào nhà xẻ đôi trảng cỏ xanh um. Hoa dại đang khoe sắc tim tím. Trước nhà ai cũng có vài gốc mận gốc đào. Có cây đang nở hoa. Có cây trằn trọc khô gầy giữa gió rét. Không gian ở núi đặc quánh yên bình. Người phụ nữ đang gội đầu cho con gái vui vẻ chỉ đường cho tôi. Cả hai mẹ con đều có mái tóc đen nhánh. Chị Fèn, tên người mẹ, nói với tôi rằng nước gội đầu nấu từ những loại lá rừng khiến tóc những cô gái Mông dày mượt và đen nhánh.
Con gái chị Fèn, muốn nuôi tóc dài, để hiến tặng tóc cho những bệnh nhân ung thư như cô giáo của mình. Tôi cũng từng hiến tặng tóc. Giờ nghĩ lại vẫn thấy tiếc. Không phải tiếc vì đã hiến tóc, mà tiếc vì nếu biết mình sẽ bị ung thư, lúc đó tôi đã nói cô bé ở tiệm tóc, cắt một kiểu tóc thật ngắn, thay vì chỉ cắt đúng 35cm và chừa lại mái tóc dài ngang vai điệu đà. Mái tóc ngang vai ấy, sau này cũng rụng sạch theo từng đợt hóa chất đưa vào người.
Tôi nhìn vào đôi mắt tròn xoe của cô bé. Làn da bánh mật ửng hồng dưới nắng. Và nắng thì đang nhảy nhót trên những sợi tóc vẫn còn ẩm ướt chưa kịp lau khô. “Tóc vẫn chưa đủ độ dài. Em nuôi tóc dài hơn đã nhé”, tôi nháy mắt, cô bé nhoẻn miệng cười, bẽn lẽn gật đầu. Vẫn nụ cười tươi ngọt như viên kẹo nhỏ, tan chảy trong tim. Tôi đưa tay lên đầu, chạm vào mái tóc lởm chởm vừa mọc lại sau những lần vô hóa chất. Năm ngoái, tóc tôi cũng dài và đen mượt như mái tóc chị Fèn. Những sợi tóc rời đi giờ đã quay trở lại, giống như sự sống đang từng bước hồi sinh sau những tháng ngày tê dại nằm trên giường.
*
Chuyến đi lên Sơn La của chúng tôi khá bất ngờ và không có lời hẹn trước. Vội vàng như thể chỉ chậm chút nữa thôi, mọi thứ sẽ nhấn chìm tôi xuống bóng tối vô hạn. Dường như, sự kiên cường, sự mạnh mẽ của mấy mươi năm qua đã bị tôi gom góp hết trong những ngày vào ra bệnh viện truyền hóa chất. Những yếu đuối, sợ hãi, và cả bao nỗi niềm lo lắng bị tôi nhét vào một góc sâu kín nhất trong lòng mình. Cho đến khi hoàn thành xong phác đồ điều trị. Nhìn nụ cười rạng rỡ của người bác sĩ khi thông báo cơ thể tôi đã không còn tế bào lạ. Bệnh đã chữa khỏi. Về sống như một người bình thường. Ông nói. Sống như một người bình thường, nghĩa là người đó không còn giống người bình thường. Tôi đón nhận niềm vui và lần nữa giấu sự yếu đuối vào tận sâu nhất lòng mình. Nhưng có đôi khi, nó cũng mon men đòi thoát ra. Như trước khi tôi lên chuyến tàu từ Huế ra Hà Nội, rồi bắt chuyến xe lúc 6h30 sáng để lên Sơn La.
Nơi chúng tôi ở là ngọn đồi nở đầy hoa mận trắng ở thung lũng Mu Náu với độ cao 1.100m. Cuối năm, hoa mận vẫn chưa vào mùa nở rộ, nhưng vẫn đủ khiến lòng người mê mẩn. Tôi chọn căn lều ở trên cao nhất. Tầm nhìn đó khiến tôi có thể ngắm những ngọn đồi phía trước chập chùng ẩn hiện trong mây chiều. Hoa trắng hay mây trắng trộn lẫn vào nhau cũng không biết nữa. Hoàng hôn đỏ rực phía bên kia núi. Sự bình yên loang rộng trong chiều sâu của thời gian. Chỉ muốn mọi thứ ngừng lại ở giây phút này.
Đêm ở núi thẳm sâu như lòng người chứa đầy nỗi niềm trăn trở. Băng qua thung lũng phủ đầy mây là thị trấn. Những mái nhà xô vào nhau. Đêm xuống, những ánh đèn sáng rực một góc trời. Mà phía bên này, lặng yên trong hoang vu. Những ngọn đèn vàng không đủ soi sáng núi đồi thăm thẳm. Căn lều nằm chênh vênh bên núi. Nằm trong lều nghe đủ thứ tiếng của đêm. Có tiếng con chim gì nghe rất lạ. Thanh âm thật dài và da diết. Hay tiếng than thở của núi đang chìm trong sương đêm. Đêm lặng yên đến độ nghe được giọt sương rơi lách tách trên phiến đá, tiếng đập cánh của chú bướm đậu ở cành hoa mận sà xuống nơi cửa lều.
Trong giấc mơ đêm, tôi thấy mình vẫn còn loanh quanh trong những rừng mận ở bản Thuông Cuông (xã Đông Sang, Mộc Châu). Suốt dọc dài con đường là những rừng mận trải dài nở hoa trắng xóa như đang tươi cười với núi. Lúc đứng bên rừng mận nở lao xao ấy, tôi đã để mình đắm chìm trong cái tinh khiết được đất trời chưng cất qua trăm ngàn năm. Trên trời là mây trắng bay là đà. Rừng mận kề dưới chân ngọn núi thẫm xanh bí ẩn. Từ trong rừng mận ấy, tôi đã nghĩ phải chăng đây chính là chốn đào nguyên Lưu Nguyễn đã lạc vào. Cảnh đẹp, yên bình cũng chỉ đến thế mà thôi.
Tiếng xe máy nổ lạch bạch bên dưới những con đường quanh co bị sương sớm che khuất đánh thức giấc mơ ngọt ngào. Những người nông dân đang chở rau củ ra chợ sớm. Họ đi trong sương lạnh và gió núi đuổi theo trên đầu. Tôi mê vị ngọt của trái su su nơi này. Cái vị thơm thơm, bùi bùi rất bắt vị. Hôm trên đường từ bản Thuông Cuông về, chúng tôi đã dừng lại nhặt quả su su ai đánh rớt trên đường. Tôi đã thấy những người nông dân chở những bao rau củ phía sau xe, chạy băng băng qua những đường núi gập ghềnh. Quả su su nằm trong những chiếc bao tải màu xanh màu trắng, chắc không chịu được sự xóc nảy mà lăn xuống vệ đường. Tôi nhờ chàng trai ở homestay luộc giúp quả su su cho bữa tối. Cậu cười, chỉ dây su su vắt vẻo neo trên cành mận già. Mấy quả su su nhờ ướp sương đêm mà non xanh mơn mởn. “Để em hái cho chị một trái. Su su vừa hái xuống khỏi cây ăn ngon hơn nhiều”. Và cái vị của quả su su hôm ấy, tôi nhớ mãi. Làm sao lại khác với vị của quả su su tôi đã ăn bao nhiêu năm qua đến thế. Vị ngọt mát, và thơm. Rất thơm. Hương thơm thoảng như vị của khoai môn vừa nấu chín, lại như mùi thanh mát của cỏ cây buổi ban mai. Hay tại nụ cười của cậu bé miền sơn cước, sự thơm thảo nhiệt tình của họ đã bồi đắp cho hương vị của món ăn thêm đậm đà.
*
Anh Sơn, người cho chúng tôi thuê xe máy đã chở chúng tôi từ homestay Lêu Mây trên đồi xuống đường quốc lộ. Anh chỉ tôi cách ngồi sau xe sao cho thật ổn, để khi xe lao xuống dốc, tôi không đẩy ảnh xuống yên xe mà chiếm hết chỗ. Cái cảm giác khi xe lao xuống con dốc dựng đứng thật khiến người ta phấn khích. Gió tạt vào hai tai tôi nghe phần phật. Có đôi lúc, tim nhảy thót lên theo một khúc cua xóc nảy.
Nhà anh Sơn ở ngay cuối con đường dẫn lên đồi. Hiên nhà dựng mấy chiếc xe máy để cho thuê. Anh dặn chúng tôi, đi dốc lên hay dốc xuống đều phải đi số 1 hoặc số 2. Tốt nhất là đi số 2. Không được tắt máy khi xuống dốc. Vì xe đã được anh “độ” lại cho phù hợp với địa hình đường núi, tắt máy sẽ khiến phanh tay, phanh chân không “ăn”. Anh dặn đi dặn lại phải sử dụng cả phanh tay, phanh chân khi thả dốc. Chắc mặt tôi với cô bạn đi cùng ngơ ngáo lắm, nên anh mới dặn dò tỉ mỉ như thế. Hay những người dân nơi này đều thế. Luôn thật thà và đầy chân thành.
Cô bạn đi cùng tôi tên Tâm, chưa từng chạy xe leo đồi dốc, nhưng vẫn mạnh dạn cầm lái. Tôi chạy xe máy qua nhiều núi đồi đèo dốc rồi. Nhưng tôi vừa mới khỏi bệnh, nên muốn tiết kiệm sức. Chúng tôi chạy chầm chậm qua các bản làng, tận hưởng hương vị của thong dong, tự do.
Tôi nhớ khi hỏi đường để tìm vào làng nguyên thủy ở bản Tà Số, xã Chiềng Hắc, huyện Mộc Châu. Người xe ôm nói với chúng tôi đường xấu lắm, khó mà đi được. Nhưng hai đứa con gái chúng tôi vẫn muốn thử sức. Thế nhưng, khi đến bãi giữ xe, ngay lối rẽ vào làng là đoạn cua gấp khúc. Mặt đất lồi lõm lô nhô khiến bánh xe trượt dài rồi ngã xuống. Hai bác xe ôm tiến lại dựng xe giúp. Tâm sợ, nên chúng tôi chọn gửi xe lại rồi thuê xe ôm đi vào làng.
Người đàn ông chở tôi đã gần 60 tuổi, nhưng tay lái rất vững chắc. Tôi ngồi sau xe, yên tâm nhìn ngắm khung cảnh đẹp như tranh. Bên này là núi cheo leo, bên kia là những cánh đồng hoa cải trắng cải vàng bát ngát. Thi thoảng lại có ngôi nhà gỗ nhỏ dựng giữa đồng. Một thung lũng nhỏ xanh mướt cỏ cây như những thước phim ngọt ngào trong “Ngôi nhà nhỏ trên thảo nguyên” tôi từng xem trên sóng truyền hình.
Qua những con đường phẳng lặng bình yên là đến những đường dốc gập ghềnh cheo leo. Đường đất lô nhô đá tảng, những đoạn dốc quanh co, bùn lầy, đủ thử thách một tay lái cừ khôi. Nhưng người đàn ông bình thản chạy xe. “Quen rồi. Cũng không khó đi lắm”, ông nói. Người đàn ông như một hướng dẫn viên du lịch đầy tâm huyết, kể cho tôi nghe đủ thứ chuyện. Chơi chỗ nào đẹp, ăn món nào ngon, văn hóa bản địa có điều gì thú vị. Giọng nói hiền lành ấy như cây cỏ mướt xanh ngậm sương mai trên đồi, khiến tôi càng thêm yêu đất và người nơi đây.
Mấy chục nóc nhà ở Hang Táu nằm bình yên bên chân núi. Đồng cỏ xanh trải dài miên man bất tận. Những con lợn đen, gà đen, dê bò thủng thẳng gặm cỏ quanh những phiến đá nhấp nhô. Làng du lịch cộng đồng nhưng vẫn giữ được sự vẹn nguyên vẻ hoang sơ mộc mạc và yên bình. Sự xô bồ, hối hả dường như không thể chạm đến nơi này.
Tôi thích cây đào trước một ngôi nhà ở làng nguyên thủy. Chủ nhà là người phụ nữ Mông, đang đẩy chiếc xe rùa loanh quanh trên trảng cỏ trước nhà để hốt phân gia súc. Những con lợn rừng chạy quanh. Đàn gà đuổi nhau kêu chí chóe. Mấy con ngỗng rướn dài chiếc cổ khi thấy người lạ. Bà mỉm cười khi thấy tôi đứng dưới gốc đào, si mê ngắm những bông hoa màu hồng nhạt. Tôi nghĩ, giữa bà và cây đào đang trổ bông này, ai sẽ nhiều tuổi hơn ai. Người phụ nữ Mông không biết nói tiếng Kinh. Còn tôi lại không biết nói tiếng Mông của bà. Nên chúng tôi chỉ biết nhìn nhau cười.
Buổi chiều trong thung lũng, nhiệt độ dần xuống thấp. Người phụ nữ ra dấu mời tôi bước lên nhà. Trước hiên, dưới bóng cây đào, lò than đang cháy dở, mấy bắp ngô và khoai lang đã nướng chín vẫn còn ấm nóng. Tôi ngồi bên bà, nhấm nháp vị ngọt thơm của khoai nướng, thong dong ngắm nhìn những bóng người đến đi ngoài kia. Con mèo nhỏ lăn qua lăn lại trên hiên, đè lên mấy cánh hoa đào vừa rơi xuống. Sự bình yên ở núi, khiến người ta bịn rịn chẳng muốn rời đi.
Tôi gặp Phùng ở cổng vào làng, khi tôi đang đợi người xe ôm quay lại đón. Một cụm cây thuộc họ môn có những phiến lá to tròn nép bên cổng vào. Trên những chiếc lá là những hàng chữ màu trắng đẹp đẽ: “Xin chào quý khách”, “Quý khách đi về hướng này”. Có phiến lá được vẽ lên hình mũi tên chỉ phương hướng. Tôi nhìn những phiến lá xanh, thầm hỏi bao lâu nữa thì ngọn lá kia sẽ héo tàn. Nhưng dẫu có tàn phai, chắc chúng cũng vui mừng vì đã có thêm một cuộc đời rực rỡ khi đến chốn này.
Phùng kể vanh vách cho tôi nghe về nếp sống của những người Mông ở Hang Táu, khiến lúc đầu tôi còn tưởng anh là chủ nhân của một trong hai mươi nóc nhà bên trong làng. Phùng nói nhà của những người Mông bên ngoài bản Tà Số 1, được xây khang trang, vững chắc. Nhưng ở thung lũng này thuận lợi cho việc chăn nuôi trồng trọt nên họ vẫn đến đây dựng những ngôi nhà gỗ, chăn thả gia súc gia cầm. Cho đến năm 2020, khi huyện Mộc Châu có chủ trương xây dựng bản du lịch cộng đồng Tà Số, thì nơi này dần dần thu hút khách du lịch tìm đến. Phùng có sự sôi nổi của một người trẻ thích đi đây đi đó khám phá. Anh đang ngồi chờ những người bạn vẫn còn nán lại bên trong chụp hình. “Lần nào vào Hang Táu, em cũng tự chạy xe vào. Cái cảm giác thử thách bản thân, vượt qua giới hạn của mình thật thích thú”, Phùng nói. Trên chân cậu là đôi dép tổ ong, mỗi chiếc một màu, chắc được mượn từ homestay mà Phùng ở lại.
Cái giới hạn mà Phùng nói, ngày hôm trước chúng tôi cũng vừa trải qua, khi vào bản Pa Phách của xã Đông Sang. Con dốc vào bản dựng đứng. Khi chúng tôi lên nửa dốc thì chiếc xe máy bốc đầu quay ngược lại. Tôi và Tâm nhảy khỏi xe, đứng ngơ ngác nhìn chiếc xe quay ngược 180 độ giữa con dốc, lơ mơ không hiểu chuyện gì vừa xảy ra. Mấy người đàn ông chạy xe phía sau dừng lại, nhanh nhẹn giúp chúng tôi dựng lại chiếc xe máy. “Đang đi lên sao lại đi xuống? Giờ đi xuống hay đi lên?”. Một người đàn ông vừa giúp chúng tôi dựng xe vừa hỏi. Nụ cười của họ làm sáng bừng cả con dốc cheo leo.
Nỗi sợ hãi lúc vượt dốc không che lấp được niềm vui rộn ràng trong lòng khi chúng tôi nhìn ngắm sự bình yên của bản làng nơi này. Những ngọn núi như ngủ vùi trong sương chiều bảng lảng, vừa nên thơ mà hùng vỹ. Những đồng cải trắng bạt ngàn tinh khôi, tựa như những mộng mơ của người thiếu nữ vừa chớm yêu lần đầu. Khói bếp nhà ai bay lên lượn lờ nơi góc núi, chạm vào đám mây xám vừa sà xuống nơi chái nhà. Sự bình yên chạm khẽ vào lòng lữ khách đường xa.
*
Tôi nhớ cái hẹn đến thăm vườn mận của ông Mùa A Chú ở bản Tà Số, khi chúng tôi dừng ở quán nhỏ của ông ngay trên con dốc dẫn vào bản. Ông kể về những đồi mận nhà mình với một tình yêu đầy thành kính. Mùa hoa mận trắng trời và mùa mận chín đỏ rực như ngọn lửa làm ấm bao cuộc đời xứ núi. “Mùa hoa mận năm sau nhớ ghé nhà chú nhé”. Tiếng ông Mùa A Chú bồng bềnh trôi giữa mù sương. Tôi cũng thì thầm trong lòng, hẹn với bản làng mùa sau.
Chúng tôi rời Mộc Châu khi cơn mưa trút xuống không dứt. Mấy ngày loanh quanh ở núi trời đều nắng đẹp. Vậy mà khi rời đi, mưa day dứt mãi không dừng. Tôi mang theo cơn mưa trở về như mang theo sự bịn rịn của vùng đất nơi này. Mang cả những bình yên vừa góp nhặt được. Thấy lòng nhẹ nhàng như áng mây bay ngang đồi mận trắng đang rộn rã nở hoa. Những gốc mận xù xì kê mình vào đá núi chênh vênh mà kiên cường đón những bình minh. Cây cối mạnh mẽ biết bao, sao lòng ta có thể yếu mềm.
L.H
(TCSH441/11-2025)