Chắc là nỗi ám ảnh mà đôi mắt ấy đã để lại? Từ đôi mắt biết nói cười, biết thẹn thùa, hấp háy mời gọi? Từ đôi mắt có đuôi êm ả mà nồng nàn đã hẹn nói với tôi những lời nói của bình minh trên sông Hương, của đêm nguyệt hồ và của chiều thủy tạ? Đôi mắt thở dài, đằm thắm những lúc ngước nhìn. Nhưng có một ngăn cách âm thầm làm cho tôi bối rối, tưởng như từ đáy sâu của màu mắt đó là cổ mộ, đền đài lăng tẩm ngàn xưa, đồng thời nó cũng gần gũi đến độ làm bần thần da thịt. Sáng nay, đôi mắt ấy gợi nhớ chút êm ả bình lặng của ngày tháng cũ, những lần nằm dưới tàn cây rậm rì, nhìn nắng trưa sáng loà trên đám đất khô, gợi nhớ những khuya khoắt trên bến đá ngồi nghe tiếng sáo dìu dặt trên dòng sông óng ả, vuốt ve những tàu lá dừa sóng soài dưới trăng, gợi nhớ những ngày hội hè đình đám, chiếc áo the thâm, guốc mộc, chiếc chiếu hoa cạp điều. Đôi mắt đầm đìa chuyện cũ, ắp đầy hương xưa lẩn quẩn theo tôi đi hết con đường hồi nào không hay. Tôi đứng lại thở một lát, vuốt mấy sợi tóc dính trước trán, loay hoay với những ý nghĩ thầm kín trong lòng. Bên kia đường, dưới một gốc cây giáng hương, người đàn ông chít khăn xanh đang bày hàng. Vài người đi đường dừng lại nhìn. Người đàn ông vừa bày ra các thứ vặt vãnh, rồi cất giọng ca một câu vọng cổ. Giọng đã khàn, mệt mỏi, thu hút tôi không thể không băng qua lộ đến với lão. Nhìn dáng điệu của lão cùng các món hàng bày bán trên tấm vải dầu trải rộng, tôi thấy tiêu điều quá. Tất cả như là một chứng tích tiều tụy của một thời gian. Tôi bất chợt nhớ mang máng câu thơ cũ “những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?”. Người muôn năm cũ còn có ai? Qua lớp bụi mỏng vàng nhạt trên các đĩa sứ, lư đồng, lọ gạt tàn thuốc, bức hoành phi chạm cẩn, qua màu đen cũ càng của những đồng tiền và trong cái dáng mệt mỏi của lão, có một chút gì của muôn năm cũ còn vướng vất, lê lết trên đó. Nó thảm hại tưởng chừng như từ những di vật đó vẫn còn ủ một lớp bụi thời gian bạc mốc. Lão với tay vơ chiếc khăn cũ nhàu nát, phủi lau chùi những đường viền bạc, những lớp bụi bám đầy. Mấy ngón tay len lỏi trong từng ngách, từng góc nhỏ, vội vã một lát rồi chậm dần. Lão dừng lại, ngần ngại trên những hình tượng của bức hoành phi chạm cẩn, chỗ một miếng cẩn bị lóc ra. Rõ ràng là ngón tay lão hơi run khi dừng lại ở đó. Tôi nhích người về phía trước, hơi khom người xuống đưa tay rờ rẫm những đường nét góc cạnh, cũng nét ngang, sổ thẳng được lồng trong tàn cây, đàn chim, phiến đá, bầy nai, bụi trúc, chậu lan, dòng suối... Những hình tượng có tính cách thủy mạc sáng rỡ trên nước cẩn bóng. Tôi cũng thẫn thờ một lát trên chỗ trũng mà miếng cẩn bị lóc đi. Ba tôi vẫn thường buồn bã về sự thiếu sót đáng tiếc của một miếng cẩn trên đồ cổ. Bác Thiều vẫn từng chép miệng tiếc rẻ mỗi lúc ngắm bức hoành phi của ba tôi. Ngày tháng mờ khuất phút chốc lênh đênh theo dòng ý nghĩ. Để lấp chỗ trũng đó, ba tôi đem dán bằng một miếng giấy kẽm sáng bóng. Ba tôi đứng ngắm một lát rồi lắc đầu chán nản lấy vứt đi. Có một lần, ba tôi gởi một người quen ở miền biển mua được một miếng xà cừ rồi tất tả chạy tìm ông thợ cẩn cho kỳ được. Hì hục cả buổi, ông thợ dũa mài, cắt xén cho vừa kích thước. Ông thợ kêu khổ nói là đã bỏ nghề gần hai mươi năm, nể ba tôi nên cố làm cho được. Lúc gắn miếng xà cừ vào, ba tôi mừng rỡ hân hoan vô cùng, sai người nhà làm thịt con gà trống thiến rồi xoắn xít lấy mỡ gà vàng rộm đem đánh bóng nước cẩn. Các hình tượng như được hồi sinh, xán lạn, bóng ngời. Tôi có cảm tưởng như mấy con long lân qui phụng đang nhảy múa, bay lượn dưới ánh mặt trời. Nhưng chỉ được một tuần sau thì miếng xà cừ rơi xuống nền gạch, ba tôi nhặt lên, mân mê tiếc rẻ. Trong bữa cơm chiều, ba tôi nói với mọi người là chẳng còn lòng dạ nào để chơi đồ cổ nữa. Đằng sau chỗ trũng đó biết đâu là nỗi ngậm ngùi. |