Truyện ngắn
Quăng gươm xuống hồ
09:24 | 30/09/2025

TRẦN THANH TÂM
    Truyện ngắn dự thi 1993

Cụ có một tên riêng hẳn hoi như mọi người. Nhưng ở cái đất "trong dinh" nầy, người ta quen gọi Cụ bằng một nhân xưng chung đối với người cao tuổi hay có quyền lực: Cụ!

Quăng gươm xuống hồ
Minh họa: Nguyễn Duy Linh

Là người tôn thất, nghe đâu có lần người ta gọi Cụ bằng "Mệ". Cụ không ưa, "Mệ ghéc!"

Cụ có cái dáng bề ngoài nhỏ con, lử đử, lừ đừ, bận chiếc áo gấm bạc, rộng quá khổ, bạc phếch, chỉ còn lại vài vết màu tía ở những nếp gấp mà ánh sáng thời gian chưa tài nào xóa được. Chiếc khăn đóng xứ Huế chống chọi với gió sương trơ ra "với tuế nguyệt". Cụ bước chậm chạp nhưng vẫn khệnh khạng như thời xưa, hai ống quần loạt xoạt theo bước đi.

Mỗi lần cụ lử đử lừ đừ, cắp cái xích sắt đi ra đường, đàn chó đua nhau sủa cắn, làm náo động một vùng. Ai gặp hay gặp ai, cụ không hề để ý, không nói không rằng, đôi mắt già nhìn mãi mặt đường, hình như để ôn lại cái dĩ vãng "đầy bi hùng" một thời đế đô!.

* * *

Ở ngã ba đường rẽ ra phía Đại nội, người chào cụ, người lặng thinh, cố bước nhanh để cụ không bận tâm. Cụ cứ đi, lử đử lừ đừ. Bọn trẻ con đang chơi bên đường, thấy cụ đi tới, chạy tán loạn, la toáng lên. Cụ chưởi:

- Mạ bây!

Thế thôi, sự im lặng lại trở lại. Một chiếc cáng, hai người cong lưng gánh một người. Thấy cụ, người nằm trong cáng ngoi đầu dậy, nói: - Này, Chú! Nói mãi mà chú không nghe... là răng!

Tui chộ chú theo mãi cái nghề bắt chó... sao không coi đó là làm nhục dòng họ, làm nhục quốc thể! hử chú!

Không trả lời. Con người nhỏ con khoác bộ áo khăn quá cỡ ấy vẫn lử đử lừ đừ. Người khách cho dừng cáng, cáu kỉnh, vẫn ngồi trên cáng, nói to thêm:

- Không nghe sao! Nhục nhã quá quắt. Cành vàng lá ngọc lại làm cái nghề uống máu chó... Chú phải nghĩ chứ!

Đây là lần hiếm hoi đối với Cụ. Cụ run bần bật nói một thôi dài ngoài sự bình thường bản tính Cụ:

- Tui... tui... tui đói, tui ăn thịt chó... tội chi??? Bác, à quan Thượng... Hình... uống máu người ở "Nghệ Tĩnh đỏ" mới là nhục dòng họ nhục quốc thể... mới... mới... đi theo... (đi theo Tây) - Tiếng cuối cùng cụ không thể nói lên lời.

Câu chuyện đối đầu không biết rồi sẽ đi đến đâu, nếu chiếc cáng không lặng lẽ rời đi từ bao giờ. Ta chỉ biết sau buổi đối đầu hiếm có ấy, Cụ run bần bật, chân tay như không còn phải của mình nữa. Ngọn lửa trong tâm hồn cụ như định khơi dậy, vừa hay vừa dở, vừa bằng lòng lại vừa khó chịu. Cái khó chịu nhất là sao mình không nói rõ mình hơn, nói rõ dòng họ mình hơn... trước mặt cụ Thượng Thư bộ hình người đã mấy lần ra lệnh cho mình múa gươm giết những người, mà đến nay, cụ mới biết họ vô tội, họ là những người yêu nước, bảo vệ quyền lợi và danh dự cho cả dòng họ cụ.

Đã lâu lắm rồi, ước chừng hơn ba mươi năm nay, cụ không dám nhìn kỹ mình, chưa hề dám nhắc lại chuyện xưa. Nay, trong cuộc bùng nổ của lòng mình, cụ cố nhìn cụ, táo bạo mở toang cửa cuộc đời mình cho chính mình thấy mình rõ hơn.

Ừ có hay ho gì nhắc lại cuộc đời thằng thợ chém thuê! Không nhắc, nó vẫn là thằng "thợ chém" không hơn không kém!

Từ khi Tây chưa sang ta, dòng họ cụ chia ra hai tông phái. Gia đình cụ được xếp vào loại hai: tôn thất. Thân sinh cụ vốn được thừa ấm người ông nội nằm bậc ngũ đẳng Thị vệ, sự ưu ái ấy của triều đình nay còn sót lại ngôi nhà ngói nhỏ, nằm chét sâu trong một ngõ hẻm ở xóm Mù U, nhìn qua y như một ngôi miếu bỏ hoang. Trong “ngôi miếu cổ” ấy còn một thanh gươm và một bộ ngũ sự bằng đồng mắt cua, trên đỉnh chiếc lư đồng còn được gắn bốn chữ "võ công đô úy", thụy hiệu của vua ban. Nghe đâu, cụ Thị vệ có quét một lớp vàng lá phía trong chân chữ phòng lúc con cháu lỡ thời. Có lẽ nhờ thế, lớn lên, cha mẹ đã qua đời, cụ vẫn còn sống được cuộc đời "mệ" trong một thời gian.

Lúc bấy giờ, bọn Tây đã lộng quyền trùm lên cả Cơ mật viện. Chúng đem cả lũ mụ đầm vào xem hát ở Duyệt thị đường qua cửa chính môn, nơi mà trước đó không lâu chỉ dành cho vua và sứ Tầu đến phong vương. Cụ nghe lòng mình xao xuyến, nhưng rồi cái nghèo, dồn cụ tới chỗ tìm kiếm bát cơm, bỏ qua những cái mà nhiều người ngộ nhận là thời buổi canh tân.

Thế rồi, một hôm người ta thấy cụ trở thành một vị nhập lưu bên Thị nội, ngày đêm đi lại ở Khám đường, ngang lưng bao giờ cũng đeo thanh gươm cán gỗ của cố cụ để lại. Cụ bệ vệ hẳn trong bộ áo nửa lính, nửa quan. Ở cái thời nửa Tây, nửa ta người ta qua lại khó biết phẩm trật "thời nay" của cụ cao đến đâu, thành thử họ cứ cúi rạp xuống chào. Cái uy quyền của cụ nhờ thế càng lừng lẫy hơn lên.

Uy quyền của Cụ càng lớn, khi được cụ Thượng hình gặp ở nha đề hình:

- Chào chú! Tôi được nghe nói đức độ, tài năng của chú đã lâu, nay mới được nói chuyện với chú...

- Đa tạ cụ lớn...

- Người trong cùng phái, cùng tông... tạ tiệc gì... Có quan đề hình đây, tôi trao thanh gươm này cho chú, từ nay chú phải múa gươm phò chúa, bảo vệ ngai vàng của Hoàng triều. Chú là người trong Tôn nhân, việc đó không ai hơn chú được!

Nhiệm vụ cụ thể ra sao, mãi sau nầy, Cụ mới rõ: đó là làm tay đao phủ ở Trường hình An Hòa!

Cái việc giết người ở trường hình có phải như việc đấu gươm ở chiến trường đâu! Những ai dù bạo gan đến mấy cũng run tay, huống hồ cụ nhận nghề này chỉ vì quan năm tiền và đấu gạo hàng tháng. Nhưng, không hiểu sao gươm đến tay dần dà biến cụ thành người thợ chém thiện nghệ.

Mỗi lần được lệnh múa gươm "phò chúa", người con gái hom hem già nua không chồng của cụ, có thói quen, chuẩn bị viên đá mài gươm, mang ra đặt ở thềm và hỏi người cha mới bước vào nhà:

- Mài hay không mài?

Tín hiệu ấy chỉ có cha con cụ biết. Mài nghĩa là người nhà tội nhân mang năm quan tiền, hũ rượu, đến van lạy cụ đưa nhát gươm sắc bén qua cổ người thân để cho hồn đi mát ngọt. Bằng không, thì cần chi phải mài!

Lần này, nghe đâu có những sự khang khác: có nhiều người theo vua làm giặc. Họ chống lại cả quan tây. Thế mới khó nghĩ chứ! Ai là giặc, ai là ta, ai là trung, ai là nịnh? Có mài gươm hay không mài gươm? Cụ còn mù mờ chuyện nầy lắm.

Cụ đi quanh sân, lử đử lừ đừ, cái cổ không đỡ nổi chiếc đầu. Trời tối dần, đó đây trong xóm bắt đầu lên đèn - Ngoài cổng, có tiếng chân, rồi có bóng một người lấp ló. Một người đàn bà! Cụ quay lại, nhìn người lạ mặt:

- Mụ lạc nhà?

- Bẩm cụ! Tôi muốn gặp cụ..

- Có việc chi?

- Thưa đến xin cụ nới tay cho hai người nhà...

Cụ nhìn chằm chằm vào người đàn bà với vẻ hết sức ngạc nhiên:

- Hai người nhà bị xử sáng mai?

Người đàn bà cúi mặt thưa:

- Dạ: Hai người nhà

- Chồng?

- Dạ, không!

- Con?

- Không!

- Cha?

- Không!

- Thì chi?

Không ai hỏi, không ai thưa nữa.

Người đàn bà ra về, không có năm quan tiền để lại, không lời cám ơn. Nhưng hình như người đàn bà lạ mặt để lại sự bối rối khó phân trong đầu óc của Cụ: Tội phạm là ai? tội gì? Mài gươm hay không mài gươm?

Người con gái xấu số của cụ đứng trơ ra ở thềm, nửa có ý mang hòn đá mài vào nhà, nửa lại thôi. Đêm ấy đáng ra cụ không uống rượu để ngày mai tỉnh táo đưa nhát gươm, nhưng cụ lại tu lấy tu để gần hết vò rượu, xong nằm quay ra như khúc gỗ.

* * *

Ba giờ sáng, cụ tỉnh rượu, nghe rõ những tiếng người rì rầm ngoài đường. Hình như lính đi roỏng thì phải. Ít phút sau, cụ nghe rõ một loạt súng liên thanh từ phía cửa An Hòa. Tiếp theo, những tiếng súng lẻ tẻ đều đặn cũng từ phía ấy dội tới.

- Ai mần chi lúc nửa đêm? Họ tập trận! Thôi mặc họ, ta nằm yên. Có tiếng chân người đi, người chạy... rồi như có ai đó lôi vật gì sềnh sệch gần ngay cổng nhà cụ. Cụ nằm im, nghe ngóng. Cụ kéo chiếc chiếu định đắp lên đôi chân lạnh giá của mình, thì có tiếng người gọi ở cổng. Cụ tung chiếu ngồi dậy. Chưa kịp đứng lên, mấy bóng người chạy tạt vào đến sân. Một tiếng thét khàn khàn:

- Có ai ở nhà không? Sao để người lạ vào đây?

Cụ chống gối bước ra, giọng run run:

- Mần chi cơ!

Mấy tên lính lùng sục qua loa rồi chạy ra. Một hồi lâu, cụ lần mò ra cổng nghe ngóng. Trời sắp sáng nhưng bóng tối còn dầy đặc. Cụ cố nhíu mắt cho rõ hơn, trên con đường quá quen thuộc không thấy gì. Vừa lùi chân qua bên bờ rào, cụ giẫm phải một vật gì mềm mềm dưới lớp bao tải thô. Hoảng quá, cụ cúi sát xuống cố nhìn, bỗng phía trong bờ rào, tiếng một đàn bà van lạy: "Xin cụ tha tội, vạn lạy cụ thương lấy mấy người này".

Cụ mất cả hồn vía, lùi lại mấy bước để nhìn rõ người đang nói. Chợt cụ lại giẫm lên một chiếc bao tải thứ hai, xác người chết cổ không lìa khỏi thân như cụ thường thấy ở bãi chém. Hai mắt người chết mở trừng trừng. Sự xuất hiện linh cảm đó trong bóng tối có lẽ do tiếng nói của người đàn bà. Linh tính ấy làm cụ bình tĩnh lại mau chóng.

- Rứa, ai giết họ?

- Dạ, Tây!

- Ở mô?

- Ở trường hình An Hòa... Họ lấy liên thanh xả bắn luôn mười người theo vua làm cách mạng... Hai người nầy, họ định nhường lại cho Nam triều, ngày mai để cụ... họ cũng bị bắn luôn...

Ngập ngừng một lúc cụ hỏi:

- Vua làm...

- Dạ!

- Cả hai đều... "người nhà"...

- …

Hồi lâu, trong bóng tối, cụ mới hiểu hết việc làm của người đàn bà sau khi những đồng chí của mình bị giặc bắn, cụ lại hỏi tiếp:

- Răng ở đây lại hai người?

- Thưa, họ là người cầm đầu.

- Rứa mụ định đem họ đi mô?

- Dạ, cháu, à... tui móc họ từ dưới hầm chôn chung cả mười người... Định đem chôn riêng. Nhưng bọn lính roỏng đuổi, tui tạt vô đây!

Phần sợ trời sáng, phần nghĩ cách phi tang chuyện tày trời này. Nghe nói đến vua, đến Tây, đến cách mạng, cụ hoảng. Hai chân cụ tự động đi loanh quanh vô hướng. Nỗi hoảng loạn dần dần bảo hòa, lan đều khắp cơ thể gầy gò của cụ... cụ thấy mình đến sát thềm bước lên nền nhà. Ừ tại sao mình vô nhà, tại sao không giục gấp mụ ta đem ngay đi trước khi trời sáng! À, lú lấp rứa!

Nghĩ thế, cụ lại quay ra cổng. Nhưng... lạ quá, cả hai bao tải lẫn người đàn bà biến đâu mất. Bây giờ, cụ hoảng sợ, hoảng sợ cố hữu, hoảng sợ linh thiêng: Ma, ma thật, ma, ma...

Cụ giấu kín. Đến cuối đời, cụ có hở cho ai biết đâu, kể cả người con gái già hẩm hiu của cụ.

Có nhiều lần người ta khuyên cụ nên lấy máu chó để trừ ma tà quỉ quái. Nay sống lụ khụ trong cái buổi hoàng hôn của vua chúa, hình như ma tà lại lấn tới. Huống nữa chính cụ đã vung gươm... Nó ở quanh nhà, trong rui mè, cột, kèo nhà cụ. Cụ có sáu bàn thờ ở quanh gốc cây mù u nhưng còn thiếu chỗ cho nhiều oan hồn khác phiêu diêu đây đó trong kinh thành. Nó nằm ngay trong lưỡi gươm treo trên cột. Ma quỉ ngày càng đến quanh mình van la, gầm thét, tỉ tê, van lơn, lặng thinh...

Trước hết cần phi tang những máu me hôm qua ở bên trong cổng nhà cụ. Cụ vội vã tóm cổ con chó đang nuôi, dùng gậy đập chết nó ngay gần cổng. Máu chó chảy vương vãi khắp nơi. Có trời biết chuyện gì vừa xẩy ra ở đây trước đó vài giờ. Cụ lại mang chiếc gươm ma tà ra chặt xương chó, làm lông chó, thái thịt chó. Có ích lắm chứ: vừa tẩy uế lại vừa giúp người. Sau khi lấy máu chó bôi lung tung khắp đó đây trong nhà, cụ ngồi thở phào thỏa mãn. Thế là ma hết chỗ nấp: trong sân, trong nhà, trong thanh gươm... Cả trong sâu thẳm con người cụ.

Cụ định nuốt một đọi máu, một miếng thịt sống. Eo ôi! Gớm ghiếc! Nhưng... thuốc đắng dã tật... thôi thì nướng miếng thịt lên lửa cho bớt máu, cho đỡ tanh. Cụ bỏ vội vào mồm, núc một ngụm rượu cho dễ trôi, cho tan nhanh vào huyết quản. Cụ thấy không việc gì, ăn tiếp một miếng thịt, ngụm rượu khác. Cụ nghĩ: ma trong ta nhiều, máu chó mấy cho đủ, cứ cho nó vào thêm...

Cụ đạp cả mâm bát xuống đất, nằm lăn ra trên chiếc chiếu ẩm ướt. Cụ hơi băn khoăn, hối hận, đứng lên đóng kín cửa rồi lại vào nhà thu dọn hết mọi dấu vết xương thịt chó chôn kín sau bếp.

Cụ vào nhà, nằm dài một lúc. Dễ chịu lạ thường! Hình như bọn ma quỉ trong người tẩu tán đâu hết, kể cả con ma đói cào cấu ruột gan cụ sáng nay. Cụ cười, một nụ cười để trật cả hai hàm răng lổ đổ, cái còn cái mất, cái đứng, cái nằm của cụ. Một kiểu cười mà cả xóm Mù U chưa bao giờ thấy trước đây.

* * *

Bây giờ cụ thất nghiệp như nhiều người khác, dù đó là cành vàng lá ngọc. Ít khi thấy cụ ngước nhìn lên lá cờ quẻ ly trên cột cờ Đại nội. Cái thanh gươm hoen ố của cụ đã bị khẩu liên thanh hất tung, dù cái xác của nó còn treo lủng lẳng ở cột nhà.

Một hôm, không hiểu chướng tai, gai mắt thế nào giữa nửa đêm, cụ bí mật đến bên hồ nước cạnh Đền Xã Tắc ở xóm Mù U, ném thanh gươm cán gỗ của cụ xuống nước. Tiếng nước động đêm vắng chỉ vang vọng vào tâm hồn người thợ chém già nua tàn tạ. Không gian lặng im, vài lá mù u khô rơi trong đêm không hề hồi âm trong vũ trụ bao la.

Từ đó với cái dáng lử đử lừ đừ, với cái xích chó sau lưng, cụ đi theo đàn chó chạy rong khắp các nẻo đường kinh thành Huế.

* * *

Một lần tại mặt trận phía Nam, người ta nhận được nhiều đại đao, dao găm, đoản kiếm từ Huế gửi vào. Người áp tải cho biết, đó là vũ khí do học sinh thu nhặt ở các hồ, các ao, các gia đình trong kinh thành.

Không biết trong số đó có thanh gươm cán gỗ của cụ hay không.

Huế tháng 9 năm 1993
T.T.T
(TCSH60/02-1994)

 

 

Các bài đã đăng
Dương Quí Phi (25/09/2025)
Mua dù (28/08/2025)
Vua Rang (25/08/2025)
Nàng Shakespeare (08/08/2025)