Truyện ngắn
Vẫn nắng ngoài hiên mơ
14:56 | 24/10/2025

NHỤY NGUYÊN

Cái bóng liêu xiêu dưới ánh đèn cao áp vàng ệnh. Anh vuốt mặt, mặt xáp rạp bụi đường và hợm hĩnh. Sương rây trên tóc rít rát.

Vẫn nắng ngoài hiên mơ
Minh họa: Tô Trần Bích Thúy

Cái bóng dán lên mặt đường.

Lối vào nhà thầy. Cỏ mọc, như lâu rồi không người qua lại và thầy đã trổ ngõ khác. Anh lờ mờ nhận diện ngôi nhà thầy, nhỏ nhắn giữa khu vườn nhiều cây dại, dựng trên phần móng phủ rêu mịn. Lưỡng lự trước bức rèm, anh tin thầy nằm trong đó. Thầy đã có vợ con (?), anh chưa biết, nhưng nếu một gia đình sống trong gian nhà này quả thảm.

Anh vẫn nhớ như in cảnh mình được học trong căn phòng lợp tranh, dựng trên khu đất bên trái con dốc dẫn về đình làng. Phía trước có khe nước. Thầy anh ở sau phòng học, là nếp nhà tranh nơi góc vườn. Hai bên ngõ ra vào, những hàng cau vút thẳng. Qua vườn nhà thầy một quãng thì đến bãi đất hoang. Trên đó trơ vơ ngôi nhà ngói cổ, tường lỗ chỗ vết đạn, bong ra; phía trong thờ Phật, bức tượng đất nung rất hiền.

Dạo ấy mẹ anh thường vào rừng chặt củi, đốn nứa, hai ba ngày mới về. Mỗi khuya, khi tiếng hú gọi đàn cất lên đầu xóm của loài chim mã, mẹ lại gói cơm lên đường. Cứ vào ngày Nhà giáo, mẹ mang một quả nếp, gói trà dẫn anh tới nhà thầy chúc mừng, tạ ơn. Thầy nghèo, song chỉ nhận ở học trò đứa vài lon gạo. Thầy sống dai dẳng thế? - Anh hỏi, dằn vặn. Tự dưng thấy lơm lớm buồn nôn, anh lẹ làng nằm xuống thành móng, kê đầu lên chiếc túi bùi nhùi dẻ. Buồn ngủ ríu mắt. Anh nhớ cái lán tuềnh toàng gió, nhớ giọng thầy sang sảng đọc say sưa những áng văn cổ, rồi chợt ngưng, và lúc anh chưa kịp dứt cơn ngủ gục đã bị thước gõ đầu…

Có tiếng gõ đều đều trong mộng mị. Đột nhiên, người ấy vung tay giáng mạnh dùi làm cái mõ thụp xuống một lỗ đen sì. Anh giật tỉnh, mình mẩy toát lạnh. Trời nhờ nhờ sáng. Đúng là có tiếng gõ đập. Từ góc vườn? Anh dõi mắt, giật mình. Người kia không phải gõ mõ mà đang đập đá. Không búa, không đe, chỉ là dùng tay cầm hòn này đập vào hòn kia. Anh nhìn đống đá lớn, lắc đầu không tin vào mắt mình.

Anh bước tới ngồi cạnh. Đúng thầy rồi. “Thầy ơi...”. Nụ cười nhăn nhở cùng ánh nhìn lạnh phả vào anh. “Thầy! Em đây mà”. Thêm tràng cười. Anh sợ. Trò gì đang bày ra?

- Chú!

Anh tưởng vuột mất hồn. Ôi chao, trước mặt anh, như một tiên nữ. Anh chưa từng thấy con bé lại có sức hút đến vậy. Nó chựng người trước ánh nhìn của anh, rồi đi. Những viên đá vẫn tung tóe dưới bàn tay của thầy. Chợt, thầy anh ngồi lại, nhìn xa... Anh móc máy ảnh theo bản năng nghề nghiệp, chỉnh độ sáng. Anh nao nao về hình bóng người thầy xưa cũ. Niềm khắc khổ cay cực điêu tàn từ nét mặt thầy lọt vào ống kính. Bên đống đá, khuôn mặt ấy khô queo, chẳng để ý đến anh. Thầy vẫn cười, mà có niềm đau lặn dưới sâu những nếp nhăn.

Anh bước lại ngồi trên móng nhà xanh rêu. Ngoài vườn vọng vào tiếng những hòn đá đập vào nhau, nhức óc. Chặng anh đi, xóm thôn còn giặc. Quá lâu rồi anh không quay lại mảnh đất này, không dám mơ bức tượng Phật trong ngôi nhà ngói cổ ấy còn. Anh buồn héo hắt trong buổi sớm mai đã tảng hết sương mù của ngày đầu hạ. Cái giếng phía bên gian nhà lều hiện ra, anh dòm xuống, khuôn mọc rêu xanh sậm. Ở những đoạn nối khuôn có nhiều cây chỉa ra, có cả loài sung và rau càng cua. Hạt sạn từ thành giếng rơi xuống đáy, khuôn mặt anh méo theo làn nước gợn.

- Chú ơi!

Anh bật người lên, nhăn nhó. Chả rõ con bé này chui từ đâu ra. Nó không thể là con thầy được. Nhưng chẳng hiểu sao anh lại hỏi: “Cháu là con thầy à?” Con bé không đáp.

- Chú là học trò... hồi xưa.

Anh nhớ cái đêm ấy, thầy và trò quanh ngọn lửa trại. Trong khuôn viên chùa làng, thầy chít khăn quàng cổ trên đầu, tay cầm ngọn đuốc sáng cất cao bài hát gọi lửa: Ta đốt lên cho bùng cho sáng, đốt lên cho bùng cho sáng, sáng lên... Các ngọn đuốc khác bùng cháy thành rừng đuốc di chuyển về phía thầy sáng rực vây quanh. Rồi tiếng phản lực từ xa, mọi âm thanh lập tức dứt bặt, lửa dập tắt. Những đứa trẻ non nớt đua nhau phá trại. Những đứa trẻ không biết từ lúc nào ai dạy cho bài học về chiến tranh tràn vào thôn xóm. Đêm đó anh ngủ lại nhà thầy. Thầy bảo nằm yên, không được trở dậy. Ánh đèn dầu leo lét chập chờn, chừng như một linh hồn rung rinh trước tiếng súng lâu lâu chợt đanh lên phía làng bên. Anh thấy bóng một người thập thò phía ngoài, rồi thầy thổi đèn bước ra, đi rất lâu. Anh muốn trở dậy nhưng quá sợ. Trong dòng tâm thức miên man anh chợt nghĩ đến mẹ đang lăn lộn dưới hiểm nguy của đạn pháo để đón anh về…

Con bé quay ngoắt, cầm cái gáo chui vào trong lều. Anh thựng ra. Có lẽ anh phải thay thầy dạy cho nó bài học. Anh định bước ra chỗ góc vườn, nơi thầy đang ngồi, nhưng vẫn còn nghe tiếng đập đá nên thôi. Anh duỗi tay lội ra vườn sau, vẫn cây dại ngút ngàn như thuở anh còn học. Ngày trước đứng đó nhìn rõ bãi đất hoang bên kia, tiếp đến là ngôi đền. Anh sực nghĩ tới gian thờ Phật tường xanh rêu, lại hy vọng bức tượng cổ còn. Mấy mươi năm thăng trầm, những con kỳ lân bằng đá anh thường cưỡi đứng nhe răng cùng tuế nguyệt. Anh không dám bước vào, sợ đường xà, viên ngói hay thứ gì đó sẽ rơi. Ngôi đền trống trơ, cái bệ thờ cũng không còn, như là người ta còn đập để tìm vật quý dưới đó nữa, nói gì đến bức tượng cổ đặt phía trên.

Tự nhiên một câu thơ của thầy lóe ra, anh đã thuộc nó nhưng từ bấy đến nay chưa từng nghĩ còn lưu đâu đó trong đầu. Hồi xưa thầy thích thơ, làm thơ mỗi ngày, chép vào cuốn vở kẻ dòng. Làng có tới mười cái nhà thờ họ, phía trước hồ sen rộng. Thầy nhìn sen đủ thời khắc, cả khi ánh trăng lấp ló. Hàng trăm bài thơ về sen. Rồi hạ qua thu đến, những ao sen rũ liệt trộn vào bùn non. Thu tàn, mẹ xuống hồ đào củ sen về cạo rửa sạch, xắt mỏng đem phơi, gói thành từng bọc làm trà biếu thầy. Số khác mẹ xắt rất dày, cũng phơi khô, đến mùa đông mang ra ngâm nước kho lên, là món ăn anh không thể quên.

*

Bà già thấp, gầy, lông mày rậm từ dưới ao làng bước lên, hai tay bê rổ bèo giơ ra cho nước chảy bớt.

- Chú quen với giáo Chân à?

- Dạ…

Anh hơi bất ngờ, chưa biết nên trả lời sao; bà tiếp, miệng nhòn nhọn:

- Tui thấy chú lúc gà gáy kia.

- À...

- Bốn giờ sáng tui đã dậy, không còn ngủ được nữa. Thấy chú vào nhà giáo Chân, tưởng kẻ trộm nhưng lại nghĩ nhà giáo Chân có gì mà trộm nó vào. Này, thế chú là gì với giáo Chân?

- Dạ, học trò cũ.

- Ra vậy. Cháu tui cũng là trò cũ của giáo Chân đấy.

- Ai bà?

- Thằng Tôn. Giờ nó học gì đó tận nước ngoài rồi.

Trong đầu anh hiện hình ảnh: năm thằng nằm dài trên nền nhà, úp xuống; đứa phạm lỗi nặng phải nằm ngoài cùng - là Tôn. Không thuộc bài, Tôn mặc độn nhiều lớp quần, có lần lấy cả mo cau nhúng nước mềm nhũn lót mông. Chiếc roi hóp của thầy vung lên vút xuống.

- Điên!

- Dạ...?

- Giáo Chân điên từ hồi được thả tù kia.

- Sao ạ?

- Họ mang giáo Chân đi mấy năm. Lính ông Diệm bảo làm thơ tuyên truyền chống đối ngụy quyền, phảƯi tù mục xương. Nghe bảo ngày được thả, giáo Chân đòi lại tập thơ bằng được mới chịu về. Khổ. Dạy thì lo dạy chứ thơ thẩn gì mà rước họa vào thân.

Anh ngẩn ra như tưởng niệm. Hồi ấy anh có ý đưa mẹ đi cùng để tiện chăm sóc nhưng thầy góp ý nên chiều ý mẹ, cứ để mẹ ở làng. Mỗi lần anh viết thư gửi quà về đều theo địa chỉ của thầy, nhờ thầy đưa tới mẹ giùm. Mẹ không biết chữ. Anh có nhận được thư. Lá thư sau chất ngất đau buồn… Không khí ngột ngạt của chiến tranh đè nặng lên thôn xóm. Đêm đêm, tiếng đại bác gầm rít. Lúc mẹ anh đốn củi ở bìa rừng phía tây, chợt bom giật. Mẹ lẫn vào miệt khói âm u...

Thư thầy đẫm máu, bảo mẹ con đã mồ yên mả đẹp.

Rổ bèo ráo nước, bà già vẫn muốn nán lại; còn anh chưa ra khỏi cái không gian đen ngòm trùm lên lùm cổ thụ đầu làng.

- Dạo mới về tội lắm chú. Cũng may giáo Chân không ăn.

- Sao?

- Giáo Chân chỉ ăn trái bàng thôi. Mùa bàng chín, giáo Chân đi dọc đường lớn nhặt về muối ăn dần. Mỗi ngày dăm quả. Cơm không ăn. Không ăn chi cả. Rồi cứ đập đá. Để làm gì chú nhỉ.

Anh mường tượng đến những viên đá thầy đi nhặt bên đồi, mỗi lần mươi cục, về cứ hai viên đập vào nhau và thành những viên nhỏ khác.

*

Một chén cơm và dĩa dưa muối để dành cho anh. Nhìn gian lều ọp, anh chạnh lòng. Thầy vẫn giữ mấy tấm ngựa gỗ, choán hết phần nền nhà. Chiếc bàn áp sát góc ngoài, dành phần còn lại làm lối. Anh nhớ xưa kia tất thảy trò đều được ngồi học trên những tấm ngựa gỗ. Nỗi gì quá trầm lắng bao phủ lớp học và cả khu vườn ngoài kia nữa. Anh nhìn lại dĩa dưa muối, thương lạ lùng bàn tay mẹ mỗi hôm làm thức ăn cho cả mùa đông dằng dặc. Anh nhớ mùi mốc thứ gạo tồn kho ăn với măng tre gió quật gãy mẹ xào mềm mà giòn. Anh nhớ manh chiếu xộc xệch trên chiếc chõng tre mòn óng. Nhớ những hôm ngủ trong nhà thầy an ủi đứa bạn vừa mồ côi…

- Chú!

Cái giật thót khiến anh quay phắt. Con bé xuất hiện trước mặt anh như một phép màu. Đôi mắt thiên thần ấy nhen lên nỗi cảm mến sâu xa. Nó ra hiệu anh tới góc nhà, nơi có bàn thờ. Tối om. Anh ấn phím di động soi. Con bé mò ra hộp diêm, xoẹt lửa châm vào ngọn đèn dầu. Đỏ au một khuôn mặt hiện trên tấm ảnh thờ bọc ni lông ố vàng. Là mẹ.

Anh run run cầm ảnh mẹ xuống. Khóc rức. Sao trên bàn thờ nhà thầy lại có di ảnh mẹ? Những ngón tay vô tình lỏng ra, tấm ảnh bay vèo rồi nằm yên dưới chân anh. Vẫn là mẹ. Mẹ đang từ mặt đất nhìn lên. Anh quỵ xuống lật phía sau tấm ảnh. Dòng chữ khiến anh sững sờ: “Thầy giáo N. Đ. Chân, mất ngày...”. Anh tuông mình khỏi túp lều, ra vườn. Trống. Trời vẫn chưa tỏ mặt. Anh móc máy ảnh bấm xem những hình đã chụp lúc tờ mờ sáng. Nhiều pô cận cảnh đống đá, song hoàn toàn không người.

*

Anh oặt mình xuống và khóc nghẹn. Bao hình ảnh về thầy hiển hiện. Thầy có đánh roi anh như với những đứa trò khác, song chưa hề có sự lạnh lùng. Càng xa càng nhớ thương thầy. Bóng dáng ân cần ấy luôn theo anh suốt những khổ lụy trên đời. Trên đời dường như anh chỉ có hai người thân là mẹ và thầy. Tha hương, anh thỉnh thoảng lại nhớ thầy, mà toàn là những lúc buồn, tủi nhục, thất vọng, chán chường. Nhớ đến thầy như một sự nhắc thức, rằng anh rất tệ với thầy, chưa hề đền đáp công ơn dạy dỗ và cả dưỡng dục như con trong nhà.

Anh trở vào, thắp nhang với cái bật lửa đổ dầu cũ sờn ở góc bàn thờ. Cúi gục. Anh không biết nói gì, chỉ suy nghĩ. Có lẽ anh đã trải qua một giấc mơ khi tinh sương ngả lưng trên thềm nền nhà này. Giấc mơ hiện rõ hơn cả sự thật. Nếu con bé không đưa anh vào đây để thấy hai tấm ảnh trên bàn thờ, hẳn anh đã không biết sự thật ấy chỉ là ở trong giấc mơ. Nhưng… Anh chợt nghĩ đến bà già vớt bèo ở ao gần nhà thầy, là thực hay mơ. Anh bắt đầu suy nghĩ. Anh gặp bà trước khi ngả lưng và thiếp đi, chắc không phải mơ.

Anh ăn xong chén cơm trên cái chạn bằng tre đan mây, thì ngoài thềm nắng đã ươm trên lớp rêu dọc theo nền nhà cũ. Con bé đi đâu rồi. Anh tưởng đến lối mòn đã dẫn mình từ ngoài đường lớn vào đây, và đứng dậy lần đến cái ao để hỏi thăm bà già. Ngôi nhà cấp bốn gần đó. Tiếng con lợn ộông oạng trong chuồng, tiếng bà già hùi nó ra xa để đổ đồ ăn vô máng.

- Chào bà!

Bà già quay nhìn.

- Chú à.

Bà vẫn đổ hết phần ăn trong cái chậu nhôm méo mó vào máng xi măng, rảy tay, rồi bà lẳng lặng lại thềm giếng rửa tay, xong mới bước đến sân.

- Chú vào nhà.

- Dạ, cháu qua chơi chút. Vắng quá. Ngồi đây cũng được bà.

- Ờ.

Bà già lấy hai cái đòn gỗ đã mòn vẹt chân và nhẵn thín ở mặt trên, đến ngồi gần đống bèo ở góc sân chưa ráo nước.

Anh yên lặng một lúc, rồi mở lời như đã thân thuộc lắm:

- Con bé không qua đây hả bà.

- Nó à, không đâu, chừng này nó ra nương kiếm gì lên chợ bán rồi. Thế chú chưa đi thăm mẹ à?

- Dạ… Cháu định chút nữa đi thăm mộ mẹ và thầy đây ạ. Cháu nói xuống xe là đi một mạch về nhà, không hiểu sao lại tạt vào nhà thầy trước.

- Ờ… thì… mẹ mày với giáo Chân cũng như một nhà.

- Dạ…

- Số giáo Chân thế nào ấy. Nhẽ ra đừng cưới vợ thì hơn. Đã ở một mình đến ngưỡng ấy ai lại còn lấy vợ. Lúc lấy không lấy…. ai, lại lấy cái con ấy. Nó đẻ cho đứa con, bỏ lại, rồi vơ hết tiền bạc của giáo Chân đi mất hút. Mất đất luôn. Người ta nói, không tiếc chồng cũng thương con, đằng này nó bỏ luôn đứa con còn đỏ hỏn, từ bấy đến nay không một dòng tin. Coi như vứt con phải không chú.

- Dạ…

Anh làm bộ trầm tư, hơi cúi để không lộ vẻ ngạc nhiên trên mặt.

- Cháu từ dạo nhận thư thầy biết tin mẹ mất cũng không về cho đến nay, lỗi quá mệ ạ. Dẫu biết hồi ấy cháu chưa kiếm nổi công việc, lo ăn qua ngày. Thư lại đến chậm cả mấy tháng trời…

- Đời người mà chú, ai biết được chữ ngờ. Mẹ chú đã chăm đứa nhỏ xíu ấy đấy, cho đến khi nó biết đi biết ăn biết nói sọi rồi, nó gọi “mẹ” chưa bao lâu thì mẹ chú mất. Hồi giáo Chân mất cũng không còn ai là thân thích, chỉ có anh em xa, họ bàn mãi rồi đưa giáo Chân nằm gần mộ mẹ chú, không gần lắm vì đất chỗ đó không đủ; nhưng cũng như mộ trong nhà chú ạ.

Anh cúi hơn, dội dòng cảm xúc khiến nước mắt ứa.

- Bà ơi, có thể cho con bé đêm đêm ở với bà được không, cháu không yên tâm.

- Thì nó ngủ với tao chứ đâu. Hồi đầu nó ở với cậu họ, rồi sau xin dọn về đây, vì nhà vẫn còn sạch đẹp. Cơn bão năm trước khiến ngôi nhà ra như thế đó. Đêm nó ngủ với tao. Tao cũng một mình, có nó đỡ buồn. Nhiều đêm nó cũng ngủ ở nhà đó, tao cứ sợ ai biết có đứa con gái một mình thì không hay lắm. Thường mười giờ đêm mà tao qua, nó tắt đèn thôi học hành, vén màn rồi thì tao mới yên tâm về nhà.

- Dạ, cháu cám ơn bà lắm. Nó như em cháu.

- Thì em chú chớ còn gì. Mẹ chú như… người nhà. Nó gọi mẹ chú bằng mẹ đó, vì từ nhỏ đã đâu biết gì con mẹ trẻ đẹp bất nghĩa kia.

*

Anh tạt vào quán mua nhang cùng chiếc bật lửa, lên mộ mẹ và thầy. Nhớ như in từng dòng chữ thầy viết trong thư, anh đọc mãi tự nhiên thuộc lòng lúc nào. Thầy có nói về một tấm bia dành cho mẹ, thầy đặt từ làng bên, ghi người phụng lập là anh. Con đường dẫn lên khu mộ của làng nằm trên đồi cát. Hồi nhỏ anh chơi hoài với mấy đứa chăn bò, biết từng vùng của dòng họ nào. Đúng như lời thầy, tên anh phía dưới tấm bia; tên thì viết đúng, họ và tên lót có sai chính tả song điều đó không gợn lên điều gì. Anh nhìn quanh, dừng mắt ở một ngôi mộ mà chưa cần nhìn bia, anh đã nhận ra mộ thầy, người ta làm hình hoa sen cho thầy. Cỏ mọc xanh um.

*

Ngôi nhà của mẹ anh cũng chỉ còn mấy bức tường rêu nứt nẻ. Anh vịn tay vào từng góc tường, ngồi xuống những nơi ngày xưa là chỗ đặt giường, tủ, nơi là góc bếp, hiên thì đón ánh sáng mặt trời mỗi sáng ở kia. Anh ngồi xuống nhìn lên bầu trời trắng nhức. Tất cả chỉ còn như thế này đây. Có lần lúc anh còn nhỏ, thầy đến dựng mấy cái cột gá thêm vào gian bếp; mẹ mua về một tấm bánh đa, làm nước mắm ớt tỏi, thầy bẻ chấm ăn ngon lành, rồi ra về.

Anh tự hỏi, sao ở thành phố anh ở, chỗ đất này đáng giá trở thành giàu sang; mà nơi đây bèo bọt, bỏ hoang hàng chục năm không ai dòm ngó. Anh liền lên luôn ủy ban xã, hỏi giấy tờ. Họ nói đủ cả. Nhờ giáo Chân đưa chỗ giấy tờ còn lại từ mẹ anh, viết đơn làm chứng để xã xác nhận, anh là chủ sở hữu. Anh về mà không biết nghĩ sao. Hoang mang quá, không lẽ bỏ thành phố về đây sống. Sống với ai? Làm nghề gì?

Con bé soạn cho anh cái giường; từ tấm chiếu cũ được trải lại ngay ngắn, đến lót cái khăn trên gối; cái chăn chiên đã sờn nhưng còn thơm mùi áo quần cất lâu ngày, dậy lên một thời trong ngôi nhà với mẹ mà tưởng như anh đã quên mất nó rồi. Chiều xuống, anh ra vườn hái nắm chè rửa sạch và cứ để trong rổ đó cho ráo. Cây chè già nua sần sùi, cao to, ít lá. Góc vườn, những cây cối, bờ rào từ ngoài vào trong nhà bắt đầu hiện rõ dần trong anh. Một vùng ký ức màu mỡ phủ bụi được lau phủi hiện lên những vui buồn thuở đó.

Con bé dọn ăn lúc trời còn sáng, tia nắng cuối ngày sót trong vườn chênh chao. Anh nhìn nó và chợt nghĩ chắc mẹ con bé đẹp lắm. Mà, nó chỉ lai cái thần sắc của thầy không đã đủ đẹp. Thầy có khuôn mặt gầy, mái tóc hơi dài, và như lời bà già thì sau này thầy không còn biết đến cắt là gì, nó túm lại thành cục như cái gối kê thầy mang theo bên vai. Anh vẫn không hiểu về sắc đẹp của một đứa con gái nhỏ như vậy, dẫu nó cũng sắp đến giai đoạn chuyển thành thiếu nữ. Và bỗng dưng một nỗi lo mơ hồ hiện lên khiến anh trăn trở. Trong bữa, vài món ăn dân dã đã khiến anh nhớ đến bữa ăn mẹ dọn thuở xưa, ứa nước mắt. Anh muốn khóc như trẻ nít nhưng ngưng lại, trước cái cười nhẹ của con bé. Lần đầu tiên cho đến nay anh thấy nó cười, hiền lắm. Cái cười kiểu như trước mắt nó là một đứa trẻ cần an ủi song nó không biết làm cách nào nên đã khẽ díu môi, song chừng đó đã nói lên quá nhiều với anh. Có một mối tương duyên vô hình quấn lấy hai người, như anh đã ngồi với nó trong ngôi nhà này từ hồi còn thầy, còn mẹ, như từ muôn kiếp sao đó.

Anh không ngủ được. Nhà bà già vẫn còn đỏ đèn. Anh biết con bé vẫn chăm chỉ học bên ấy và ngủ với bà già. Ca nước chè dội đậm đặc anh đã trở dậy uống tiếp vào khuya, hút thuốc, nhìn góc trời hưng hửng. Cho đến khi đèn nhà bên tắt lúc nào, mọi sự yên ắng kỳ lạ, cũng không một tiếng chó. Anh tính sẽ mua xe đạp, sắm sửa những gì cho con bé, để lại tiền chỗ bà già cho nó dùng hàng tháng. Anh cũng sẽ gửi về nếu nhận được thư con bé, nhưng bây giờ những tính toán đó anh thấy như ngờ nghệch, bùng nhùng khó hiểu. Anh nhớ lại mọi lời nói của bà già. Rồi tự hỏi, con bé có thật như lời bà nói không, là con gái của thầy, mẹ nó bỏ đi từ lúc đỏ hỏn, và mẹ anh đã đến nhà thầy chăm sóc như con… Hỏi rồi tự thấy mình ngớ ngẩn. Bà già ngần ấy tuổi rồi còn giỡn, còn nói không đúng như bà thấy sao. Rồi anh nghe tiếng gà gáy, nhập nhoạng đi vào giấc ngủ lúc nào.

Nắng chiếu thẳng vào chân giường anh mới dậy. Tiếng bò rống khi chưa được ra đồng vọng lại. Tiếng người phía xa góc xóm. Điều đầu tiên là anh ra hiên nhìn qua nhà bà già, không thấy ai. Toan bước đi, bỗng điều gì kéo anh lại. Gì nhỉ. Anh không biết. Ngồi xuống hiên mới hay, đó là một giấc mơ. Những chi tiết trong giấc mơ đang khuấy lên trong tâm trí anh. Cố nhớ, mà anh không thể nhớ rõ mình đã mơ gì, dẫu anh tin rằng mình sẽ nhớ. Một vài chi tiết tự hiện là anh nhớ đến thằng cháu bà già, thằng Tôn. Và bà có nói rằng nhà cửa đây rồi không biết con cháu sau ni tui qua đời có ai về mà lo hương đèn không. Sao đất đai rộng rinh thế này mà họ không về trồng trọt nhỉ. Anh tự nhiên đứng dậy, bước trên một lối mòn, qua một khu vườn bỏ hoang, đến nhà bà già. Vẫn không thấy ai. Bà già đi đâu. Con bé đi đâu. Anh nhìn quanh rồi theo thói quen vẫn thích ngồi xuống bậc hiên. Ở góc sân nắng tràn, nơi bà già từng đổ rổ bèo ở đó (giờ thì sạch bong như ai đã lau chùi quét bụi), là một cái nia sạch đặt trên rỗ. Phía trên nia có nải chuối chín bói, mấy trái ổi hái ngoài vườn và những đồ rau củ mua từ chợ còn ướt sương. Không hiểu sao anh nhớ ngay đến một việc…

Con bé từ sau giếng đi vào.

Anh hiểu ngay hôm nay là ngày giỗ thầy. Con bé nách cái nia về lại nhà thầy.

Anh bước vào ngôi nhà của bà già. Gian giữa có tủ thờ đặt gần tường, phía trước là cái bàn gỗ. Anh nhìn sâu qua lớp màn rèm tre thưa, hiện lên một gương mặt khiến anh… lặng. Ngôi nhà này mở hướng khác nên nắng sớm chếch phía bên hồi, tường cũng rêu đen rêu xanh bám kín. Anh bước ra sân. Đứng ở đây anh thấy rõ con bé bên thềm giếng đang ngồi rửa nải chuối. Rồi con bé đứng dậy múc nước, cái hình dáng khiến anh thấy nó lớn nhanh như từ giấc mơ bước ra vệt nắng màu thiếu nữ. Có tiếng chó đâu đó sủa nhác, mà khách lại bước vào nhà thầy.

- Thằng H. có về đó phải không con.

Con bé đặt nải chuối lên nhăng cho ráo nước rồi vội ra ngõ lên tiếng:

- Dạ, mời cụ vào nhà. Anh đang bên vườn hàng xóm, để cháu gọi về…

N.N
(TCSH58SDB/09-2025)

 

 

Các bài đã đăng
Kiều ca nhi (10/10/2025)
Huyết sương (06/10/2025)
Dương Quí Phi (25/09/2025)
Mua dù (28/08/2025)
Vua Rang (25/08/2025)